Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

NBLRR 14 "Vượt khổ" và "vượt sướng" việc nào dễ hơn

Chủ đề 14: "Vượt khổ" và "vượt sướng" việc nào dễ hơn
Lại cũng là người Trung Quốc có câu: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại” ý nói là người đàn ông mà không có con nối dõi (con trai) là mang tội nặng nhất trong 3 tội bất hiếu. Hoặc cũng là một câu trọng nam khinh nữ khác "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (Một con trai thì viết là có, đến 10 con gái vẫn viết là không). Cái quan điểm trọng nam khinh nữ đó cũng lây sang bên Việt Nam và có vẻ còn ảnh hưởng khá nặng nề đối với người Việt cho đến tận hôm nay.
Tuy nhiên, thời buổi này dân chúng ở các thành phố không còn quá quan trọng việc "phải sanh bằng được con trai" nữa. Mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con. Dù là ngày xưa, hay bây giờ, dù là nhiều con, hay ít con, dù là con gái hay con trai, thì con cái bao giờ cũng là một cái gì đó vô cùng quí giá đối với các bậc cha mẹ. Các cụ ngày xưa có câu "hổ dữ cũng không ăn thịt con". Đúng là như vậy, người đàn ông, hay người đàn bà nào dù có ích kỷ đến mấy, không bao giờ thương xót hay ban phát cho ai cái gì, thì cũng không ai muốn con do chính mình đẻ ra phải chịu khổ ải. Một tu sĩ Phật giáo giảng rằng "người nào không yêu thương chính con mình sanh ra thì còn chẳng bằng loài cầm thú, nên sau khi chết bị quả báo sẽ đi vào ác đạo bị đọa vào kiếp[1] thú vật thậm chí nặng hơn là bị đọa địa ngục". Trong một cái tâm lý chung như vậy, "ai cũng muốn con của mình phải được sướng, phải thành công hơn mình, phải có đời sống khá hơn mình", nên các bậc cha mẹ thường sẽ dành tất cả những gì được cho là tốt nhất cho con của mình. Tuy nhiên, đúng hay sai ở từng việc cụ thể thì còn phải xem xét kỹ.
Một đứa trẻ lớn lên, trở thành một "người tử tế ở mức độ tối thiểu" thì cha mẹ của đứa trẻ đó đã được coi là những người thành công. Như thế nào là "tử tế ở mức độ tối thiểu"? Thử liệt kê ra một số gạch đầu dòng:
- Không ngiện ngập vào bất cứ thứ gì như ma túy, cờ bạc, rượu trà, trai gái và "game" điện tử.
- Không tiêu xài phung phí, biết thương xót từng đồng xu, cắc bạc mà cha mẹ phải "đổ mồ hôi, xôi nước mắt, thức khuya dậy sớm, tần tảo ngược xuôi, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", nơi đồng cạn, nơi đầm sâu, hoặc bạc tóc, mặt dày nơi thương trường nghiệt ngã...
- Không cướp giật, trộm cắp, không lừa gạt người khác để trục lợi, không lợi dụng sự cả tin của phái nữ để lừa gạt trinh tiết làm thú vui tiêu khiển rồi "quất ngựa truy phong"
- Không a dua đua đòi, chạy theo "mode", hưởng thụ những thú vui nhất thời mà "bầy đàn" cho là phải như thế mới là "sành điệu".
- Có một việc làm ổn định và chí thú trong công việc của mình.
Năm gạch đầu dòng trên là quan điểm cá nhân của người viết về cái khái niệm "tử tế ở mức độ tối thiểu". Có thể đối với người khác, năm gạch đầu dòng đó là quá nhiều, người khác nữa lại cho là chưa đủ. Với mỗi một gia đình, các bậc cha mẹ lại có thể có những đòi hỏi khác nhau. Cho dù là thế nào đi chăng nữa, thì việc sanh ra một đứa trẻ, bảo vệ nó trước cuộc đời nghiệt ngã, dạy cho nó nên người, tưởng là đơn giản nhưng thực sự với mỗi một kẻ làm cha mẹ chắc hẳn phải là một "kỳ tích".
Viết đến chỗ này, vẫn chưa thấy nói gì đến "vượt khổ" và "vượt sướng". Vâng thì bây giờ sẽ là điều mà bài viết này muốn thảo luận. Xã hội ngày nay đang đặt đám trẻ trước một trong hai thách thức: "1. Vượt khổ để thành người" và "2. Vượt sướng cũng để thành người". Nghe thấy hơi lạ tai nhưng quả thật là như vậy! Trong xã hội trước đây, không xa lắm, chỉ khoảng 25 năm trở về trước, ở Việt Nam hiếm có trẻ nào sống trong "hoàn cảnh sướng". Toàn xã hội ở trong tình trạnh thiếu thốn mọi mặt, thiếu thức ăn chứ đừng nói đến là chọn ăn món gì, thiếu đồ dùng, thiếu quần áo chứ đừng nói đến thời trang, thiếu trò chơi giải trí chứ đừng nói đến là tiêu khiển như thế nào. Đám trẻ như chúng tôi thời đó gần như không có sự phân biệt theo cái kiểu như bây giờ nào là "công tử", nào là "thiếu gia", nào là "kiều nữ", nào là "ái nữ" hay "thiên kim tiểu thư"... Chính bởi vậy, lúc đó tất cả đám trẻ chỉ cố gắng "vượt khổ" và hoàn toàn xa lạ với cái gọi là "vượt sướng". Thế nhưng ngày nay thì khác, xã hội đã có sự phân biệt quá sâu sắc giữa "lắm tiền" và "thiếu tiền". Càng ngày càng có những "kẻ ăn không hết", những "kẻ ăn không hết" càng nhiều thêm thì đương nhiên sẽ tạo ra nhiều thêm những "người lần không ra". Xã hội Việt Nam chưa đạt được mức "công bằng tối thiểu" để có thể tạo ra mức sống "tạm ổn tối thiểu" cho những người "kém may mắm" nhất xã hội. Sự phân hóa giữa "thừa thãi" và "đói kém" quá sâu sắc đó đặt bọn trẻ vào một thách thức rất lớn đó là phải "vượt khổ" và mặt đối lập đằng kia là "vượt sướng" để rồi cùng tiến đến con đường tạm gọi là "tử tế ở mức độ tối thiểu".
Nói đến những trở ngại của đám trẻ "vượt khổ" thì dễ hiểu. Nào là hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu tiền đóng học phí, cơm còn chẳng đủ ăn, nói gì đến học. Nào là thiếu thốn sách vở bút mực, dụng cụ đồ dùng học tập. Nào là cha mẹ mải lo kiếm sống không có thời gian quan tâm đến việc học của con cái. Rồi phải phụ giúp cha mẹ kiếm sống nên ảnh hưởng đến việc học. Hoặc là có trẻ thì mồ côi cha, đứa lại mồ côi mẹ, đứa lại mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nào là bạn bè xấu rủ rê vào con đường trộm cắp, cướp giật, phạm tội. Đấy là chưa kể đến những trẻ phải bơi qua suối đến trường, hoặc đu dây qua sông để đến lớp, hoặc chui túi ni-lông để qua suối đến trường... Cái khổ của đám trẻ "xấu số" thì trùng trùng điệp điệp, vượt qua được cái khổ này, cái khổ khác lại ập đến, bởi vậy đứa trẻ nào "vượt khổ" để "thành người" thường là những đứa có nghị lực "phi thường". Tuy nhiên, bởi vì cuộc đời của chúng vốn từ lúc nhỏ đã nhiều nước mắt, nên khi trưởng thành ít khi thấy họ cười. Có một câu chuyện thật trong vô vàn câu chuyện thật, như thế này:
Một gia đình có sáu chị em sống quây quần bên cha mẹ, cuộc sống tuy nghèo đói nhưng họ rất yêu thương nhau. Bỗng năm đó "trời giáng tai họa", cha mẹ của đám trẻ đột ngột qua đời, sáu đứa trẻ đột ngột rơi vào tình cảnh bơ vơ không nơi nương tựa. Một nhà sáu miệng ăn, làm sao để sống? Người chị cả trong gia đình đang tuổi đôi tám, "mười sáu trăng tròn" bỗng nhiên phải trở thành "mẹ" của năm đứa em ruột. Bỏ trường, bỏ lớp, bỏ bạn bè, bỏ lại tương lai, người chị lao vào đời kiếm sống, kiếm từng hạt gạo để bỏ vào nồi nuôi chính mình và năm đứa em nhỏ dại. Cuộc đời quá nghiệt ngã trên đôi vai gầy mảnh khảnh của cô gái mười sáu. Một ngày, cô không kiếm được bất cứ cái gì để cứu đói cho đàn em, một suy nghĩ đen tối đã xuất hiện trong đầu. Cô trở về nhà với gói thuốc sâu trong tay với ý định cả sáu chị em cùng chết. Thế nhưng khi về đến nhà, đàn em nhỏ ríu rít vây quanh với những ánh mắt hồn nhiên sáng bừng trên những khuôn mặt thơ ngây giữa mịt mùng đêm tối. Lòng cô quặn đau và ý chí muốn sống, muốn "vượt khổ" mạnh hơn bao giờ hết, cô đem trôn gói thuốc sâu ra sau vườn và tự thề với lòng mình "sẽ vượt qua tất cả khổ đau để quyết tâm nuôi dạy các em thành người". Thế rồi, sau bao nhiêu năm "vượt khổ", năm người em nhỏ lần lượt trưởng thành, đứa là kỹ sư, đứa bác sĩ, đứa là cô giáo, đứa làm luật sư, đứa sĩ quan quân đội. Cả năm người em đều có những thành công nhất định và đều đã lập gia đình riêng, sanh con đẻ cái. Nhưng cô gái mười sáu năm xưa nay đã là một người phụ nữ già cô đơn lẻ bóng. Hằng đêm, trong bóng tối nơi một ngôi nhà ngoại ô, có hình một người phụ nữ cô đơn vẫn mỉm cười.
Những tấm gương "vượt khổ" thường để lại nhiều xúc động và khiến cho người đời cảm phục. Thế còn "vượt sướng" thì sao? Đa số mọi người đều cho rằng "những đứa trẻ sanh ra đã sướng thì cứ thế mà tiến thẳng trên "con đường trải thảm đỏ", làm gì mà có trở ngại cơ chứ?" Vậy thực tế trẻ sống trong hoàn cảnh sướng thì có trở ngại gì phải vượt qua để "thành người".
Người viết bài này có một gia đình nhỏ nhỏ, cô bồ của người viết cũng sanh ra hai đứa con rất đáng yêu một gái và một trai. Người em gái của người viết cũng có một gia đình nhỏ nhỏ và cũng có hai đứa con một gái và một trai. Đám trẻ bốn đứa đó tuy chưa phải là con nhà đại gia thừa tiền, nhưng cũng có thể tạm gọi là "sống trong hoàn cảnh sướng". Một lần đi chơi ở vườn hoa hay công viên gì đó, cu Đức đòi mua cái chong chóng, và được đáp ứng ngay (không rõ lúc đó là bà nội hay chú út chưa vợ hay là mẹ mua cho, nhưng lại quên không mua cho cu Mig). Cu Mig thấy anh cầm chong chóng chơi, quay tít, thế là cu cậu cũng muốn có một cái để chơi. Cu cậu liền nói "Ơ... của Mig đâu rồi". Câu nói này khiến cả nhà ngỡ ngàng, bởi mọi người đều cho là Mig cũng được mua cho một cái rồi nhưng đã làm rơi đâu đó. Nhưng thực tế là chưa. Lúc đó cả nhà cùng bật cười sảng khoái vì cái cách đặt câu rất ngô ngê ấy. Thêm một câu chuyện khác về cu Đức. Đức khác hẳn chị, Đức thích chơi hơn học, nhất là mấy trò chơi "game" điện tử. Thời nay mọi người đều xài điện thoại "smart", điển hình là "iphone". Cu Đức chắc là đã mượn được điện thoại "quả táo" của nhiều người để chơi, thành ra là nghiện. Trong khi đó ba mẹ của Đức lại lạc hậu, chỉ xài mấy cái điện thoại gọi được và nghe được. Rất nhiều lần Đức gạ mẹ "mẹ mua điện thoại quả táo đi". Ba gọi điện về nhà nói chuyện, Đức chẳng đòi hỏi gì, chỉ nói "con muốn điện thoại quả táo". Có thể nhiều người cho rằng, chuyện cái chong chóng của Mig và chuyện cái điện thoại "quả táo" của Đức chỉ là ba cái chuyện tẹp nhẹp, có gì mà phải nghĩ cho mệt, đáng bao nhiêu đâu, sắm vô tư cho con cái nó "bằng bạn bằng bè".
Vâng, có thể là vấn đề kinh tế không đáng phải suy nghĩ nhiều lắm. Với cu Mig, cái chong chóng có nhiều cũng chỉ là vài chục ngàn, với gia đình như gia đình Mig thì dễ như "thò tay vào túi lấy đồ". Với cái điện thoại "quả táo", đối với gia đình Đức không dễ như vậy, nhưng không phải là không mua nổi. Có điều cái đáng phải suy nghĩ là cái cách đặt câu dùng từ của hai đứa trẻ. Câu nói "Ơ... của Mig đâu" và câu "con muốn điện thoại quả táo" đều là hai câu yêu cầu thuộc vào thể dạng MỆNH LỆNH. Và đây là "mệnh lệnh" cho các bậc phụ huynh của chúng. Có thể nhiều người cho rằng, chúng quá nhỏ, biết gì đâu, nên câu chữ chưa thể đúng, đừng bắt bẻ làm gì. Người viết bài này không cho rằng là như thế. Rõ ràng hoàn cảnh sống đã đưa chúng đến với cách nghĩ và cách nói theo hình thức mệnh lệnh khi mà chúng muốn được chơi cái gì đó. Cho dù là không nói theo cách mệnh lệnh, khi mà chúng đã có đủ khôn hơn, chúng cũng đòi hỏi nhiều hơn so với các trẻ khác. Rõ ràng nhu cầu hưởng thụ và ý thích muốn được thỏa mãn những ham muốn tầm thường trước mắt của đám trẻ "sống trong hoàn cảnh sướng" là cao hơn những trẻ khác rất nhiều. Chính vì vậy cái "chướng ngại" đối với đám trẻ "vượt sướng" ở đây chính là những "cám dỗ của cuộc sống đủ đầy trong xã hội hiện đại".
Từ đó người ta sẽ đặt câu hỏi "vượt khổ" dễ hơn hay "vượt sướng" dễ hơn? Có lẽ không nên so sánh, bởi mọi so sánh đều là khập khiễng.
Có nhiều bậc cha mẹ lo cho con đủ đường, con cái muốn gì là có đó, yêu thương con hết mực. Tuy nhiên, khi thấy con mình học kém, thậm chí là hư thì lại kêu ca: "Nhìn cái con Lượm đó, cha nó thì chạy xe lai, mẹ nó thì làm phu hồ, nó phải phụ giúp cha mẹ việc nhà, lo cơm nước cho các em, vậy mà thi đại học nó đậu cái một. Con mày, sướng không biết đường sướng, ở nhà không phải làm gì, cơm mẹ bưng đến tận mồm, chỉ có học thôi mà không lo học, thi trung cấp còn trượt thì có xấu hổ không?". Ồ vậy là đứa khổ thì vượt được khổ, còn đứa sướng thì lại sa lầy trong sung sướng. Chẳng cha mẹ nào sống đời với con được, ai rồi cũng phải ra đi. Nếu không thể tự đứng trên đôi chân mình, khi cha mẹ đi rồi thì biết phải làm sao? Đối với các bậc cha mẹ nào sanh con ra mà khi con lớn lại không trở thành người thì buồn sầu mãi, "chết cũng không nhắm mắt". Xem ra vấn đề "vượt sướng" bây giờ lại trở thành một vấn đề nan giải và nhức nhối trong xã hội, mọi ngõ ngách cuộc đời và mọi gia đình. Một đứa trẻ từ lúc bắt đầu thai nghén, tới khi được sanh ra, rồi lớn dần. Người đầu tiên là nguồn sống của nó, yêu thương đùm bọc nó, che chở nó, bạn của nó chính là mẹ nó. Rồi dần dần trong tiến trình đó cha nó là người thứ hai tri kỷ với nó. Nhưng từ khi nó bắt đầu đi học, từ khi nó lớn hơn mười tuổi, rồi dần dần nó lớn thêm chút nữa, thì dường như nó dần dần xa rời khỏi vòng tay của những người vốn yêu thương nó bằng bản năng. Khi còn nhỏ, chuyện gì nó cũng hỏi cha, hỏi mẹ. Nhưng lớn dần, nó bắt đầu ít trò chuyện với cha mẹ hơn, giữa nó và cha mẹ bắt đầu hình thành một hố sâu thế hệ. Bất kể chuyện gì lớn nhỏ, những thứ tò mò, chúng chỉ tâm sự với bạn bè, và rồi nghe theo những lời khuyên "không đúng đắn" của bạn bè. Cha mẹ lúc đầu thấy việc đó cũng bình thường nhưng rồi dần dần họ nhận ra rằng dường như họ đang mất dần đứa con mà họ dứt ruột đẻ ra. Thế rồi nhiều lần họ thực sự thấy bàng hoàng vì hành động của con trẻ.
Hàng xóm của người viết bài này có một cô con gái và một cậu con trai. Người bố của gia đình đó là một trí thức quân đội. Ông rất quan tâm đến việc học của con, thường xuyên kiểm tra bài vở của chúng. Đứa con gái lớn học giỏi, chăm chỉ, yêu thương cha mẹ, bây giờ đang có học bổng du học bên Pháp. Nhưng thằng thứ hai thì đột nhiên đi lạc đường. Khi thằng bé học lớp 6, nó cũng là học sinh giỏi, còn được lựa vào đội tuyển toán. Nhưng bắt đầu từ năm học lớp 7 nó mê "game online" và rồi bắt đầu sa ngã. Người bố phản ứng bằng cách cấm đoán, thậm chí là đánh đòn khi bắt được quả tang. Nhưng dường như mọi biện pháp đều không có hiệu quả. Thằng bé vẫn mê muội với "game online" rồi tham gia vào băng đảng đường phố, nó đã không còn nói chuyện tử tế với cha nó nữa, nó thích nghe bạn bè rủ rê dụ dỗ nhiều hơn. Những gì bạn nó nói, nó cho là chí lý. Những gì bố nó nói nó cho là lạc hậu và cố tình chẳng thèm nhập tâm. Thế rồi đến một ngày nó bỏ nhà đi hoang. Tương lại của nó có thể trở thành người tử tế được không? Đây là một câu hỏi lớn chưa có câu trả lời.
Vì sao nhiều người thất bại trong việc giúp con "vượt sướng"? Chắc hẳn phải có rất nhiều nguyên nhân.
1. Một trong các nguyên nhân đó có lẽ cũng là nguyên nhân đầu tiên đó là đáp ứng một cách vô nguyên tắc mọi đòi hỏi của con cái. Sanh con ra, yêu thương con, đương nhiên cũng muốn con mình có cái nọ có cái kia. Tuy nhiên cần phải có quy định và giới hạn. Chứ không phải vì gia đình không thiếu thốn thì tiếc gì con cái chúng nó đòi. Vấn đề không phải là tiếc hay không tiếc.
2. Nguyên nhân thứ hai phải chăng là cha mẹ không dành thời gian tìm kiếm và tạo ra những hoạt động bổ ích để lôi kéo con mình vào. Để chúng tự do tìm nguồn vui. Khi chúng đã đi lạc đường rồi thì thật khó mà lôi chúng lại.
Trẻ "vượt khổ" thì không có đủ thời gian cho riêng mình, muốn học bài thì phải thức khuya hơn người khác, dậy sớm hơn người khác. Nhưng ở phía đối lập, trẻ "sống trong hoàn cảnh sướng" lại quá dư dả thời gian. Trong lúc đang ngơ ngác chưa biết phải dùng thời gian vào việc gì có ích, thì gặp phải sự cám dỗ của thú vui hiện đại. Thế là lâm vào cảnh chơi để "giết thời gian". "Thời gian" là một thứ vô cùng quí giá. Vàng bạc, của cải vật chất mất đi còn có thể lấy lại được. Nhưng thời gian khi đã trôi qua thì mãi mãi không quay trở lại. Vì vậy thời gian là để sử dụng sao cho không bao giờ phải hối tiếc vì mình một khắc nào đó mình đã lãng phí thời gian. Theo giáo lý của đạo Phật, sống lãng phí cũng là một nguyên nhân gây tạo nghiệp rất nhiều. Cho dù mình lãng phí những cái của mình chưa nói là lãng phí những cái của người khác. Khi tạo nghiệp càng nhiều thì phước càng mỏng, và khi đó theo luật nhân quả công bằng thì những người phước càng mỏng thì cuộc sống càng kém "may mắn". "May mắn" không phải là Thượng Đế nào ban cho ta, "may mắn" cũng không phải là một thứ bất định được quy định bởi "số mệnh". May hay rủi, sướng hay khổ đều là nhân quả của chính những hành động, lời nói, suy nghĩ của mỗi người trong cuộc đời gây tạo phước hay là nghiệp.
Tình yêu giữa cha mẹ và con cái có lẽ đẹp nhất là lúc đứa trẻ còn đang bé. Mà kỳ lạ thay, các bậc cha mẹ lại mong con mình mau lớn. Trong khi đám trẻ lại lớn rất là nhanh. Để đến một ngày chợt giật mình nhận ra con của mình đã lớn từ lúc nào không biết. Lúc các con còn bé chính là cơ hội tốt nhất để các bậc cha mẹ tạo ra một sân chơi chung lôi kéo con mình vào những hoạt động bổ ích. Nếu lúc ấy các bậc cha mẹ vì một lý do nào đó mà bỏ bê việc chơi cùng con giúp con tham gia vào những hoạt động bổ ích, thì từ khi con cái được mười tuổi trở lên các bậc cha mẹ sẽ rất khó khăn trong việc hướng dẫn cho con cái đi sao cho đúng trên con đường gập ghềnh của cuộc sống phía trước. Bởi vậy dù là phương Đông hay phương Tây, dù là đạo Phật hay ngoại đạo, thì mọi người đều được khuyên là hãy bắt đầu dạy con từ khi đứa bé vừa không tuổi thai nghén trong bụng mẹ. Thậm chí một tu sĩ Phật giáo còn khuyên là hãy bắt đầu dạy con từ lúc hai vợ chồng vừa mới cưới nhau (xem "dạy con nên người").
3. Nguyên nhân thứ ba có vẻ là rõ nét dễ thấy nhất đó là giữa cha mẹ và con cái không có một tình bạn thực sự. Khi đứa trẻ lớn hơn mười tuổi, chúng bắt đầu xa dần khỏi vòng tay yêu thương của cha mẹ. Chúng bắt đầu có nhu cầu bạn bè, dần dần chúng thích tâm sự nói chuyện với bạn bè nhiều hơn là nói chuyện với các bậc sinh thành ra chúng. Lúc còn nhỏ bất cứ chuyện gì chúng đều nói với cha mẹ. Làm việc gì cũng xin phép cha mẹ. Làm xong việc gì dù hoàn thành hay không hoàn thành cũng đều báo cáo với cha mẹ. Nhưng giờ đây, mọi thứ đã thay đổi, đám trẻ không thích nói chuyện với cha mẹ nữa. Chúng cho rằng cha mẹ không thể hiểu nổi chúng, chúng cho rằng cha mẹ nhiều khi quá khắt khe với chúng, cha mẹ thực sự đã lạc hậu rồi. Chúng sẽ bắt đầu có những so sánh rằng: tại sao bạn nó có cái nọ cái kia mà nó lại không có, mà mấy cái đó thì có đáng là bao. Dần dần đám trẻ chỉ còn tâm sự với bạn, thậm chí lén lút dối cha, lừa mẹ để làm những việc khờ dại mà bạn bè xúi bẩy. Bất cứ một gia đình nào lâm vào tình trạng thiếu sự đối thoại giữa cha mẹ và con cái thì đều tồn tại một nguy cơ rất lớn cho việc con của họ sẽ đi lạc vào con đường tối tăm không lối thoát.
Bởi vậy, khi đứa trẻ còn nhỏ, các bậc cha mẹ là cái lá chắn che trở cho con cái, đùm bọc yêu thương săn sóc cho con cái, dìu dắt từng bước chân, lo lắng từng giấc ngủ từng bữa ăn. Nhưng khi đứa trẻ lớn dần, thì các bậc cha mẹ cần phải hạ thấp mình xuống để làm bạn với con. Bởi chỉ có cách đó cha mẹ mới có thể lắng nghe được hết những tâm sự của con cái, để rồi từ đó giúp con cái hiểu được đúng sai mà biết lựa chọn lối đi cho phù hợp. Và để có thể làm bạn được với con một cách sâu sắc nhất thì các bậc cha mẹ phải luôn luôn duy trì việc tự học. Con càng lớn cha mẹ càng phải học nhiều, con càng lớn, cha mẹ càng phải đọc sách nhiều để từ đó tránh đi vào con đường dạy con theo cách áp đặt vô lý khiến con cái bất phục không tuân. Cha mẹ mà ham đọc sách, con cái cũng sẽ ham đọc sách, đó cũng chính là một hoạt động bổ ích chung mỗi gia đình đều có thể gầy dựng. Khi trẻ ham đọc sách, chúng sẽ không bị lâm vào tình trạng "giết thời gian" bằng những thứ vô nghĩa như "game online" hay "chat chít trên mạng". Tất nhiên đọc sách gì thì các bậc cha mẹ phải biết chọn lọc. Nhưng không phải cha mẹ nào cũng đọc được nhiều sách hay, câu lạc bộ "Đọc sách cùng con" là một ý tưởng rất tốt của Hoa Xuyên Tuyết (Nguyễn Thụy Anh) giúp các bậc cha mẹ lựa sách cho các con sao cho không bị sai lầm. Về phần các bậc cha mẹ nhiệm vụ cao cả là gắng làm bạn của con. Tuy nhiên, ở phía ngược lại những đứa con cũng cần có sự hợp tác. Mỗi một người cần hiểu rõ một điều rằng: trên cõi đời này không ai yêu thương mình bằng cha mẹ mình. Cha mẹ chính là những người sanh ra mình, là những người luôn mong muốn những thứ tốt nhất cho mình. Bởi vậy làm con cái đừng nên xa cách cha mẹ, hãy gần gụi và hãy nói với cha mẹ bất cứ điều gì mà mình suy nghĩ. Hãy hỏi ý kiến cha mẹ trước khi mình định làm bất cứ chuyện gì. Sự hợp tác đối thoại thông tin đầy đủ trong mỗi ra đình là điều cực kỳ quan trọng để mọi người cùng thấu hiểu lẫn nhau. Đó là điều kiện tiên quyết giúp cho mỗi đứa trẻ tránh xa được những cám dỗ quá hấp dẫn của cuộc sống hiện đại. Những cám dỗ càng hấp dẫn thì càng nhanh giết chết tương lai của mỗi đứa trẻ.
Bởi vậy, dù là "vượt khổ" hay "vượt sướng" thì đều cần sự chung sức của cả gia đình, nhà trường và xã hội. Tuy nhiên đặc biệt quan trọng là sự hợp tác thấu hiểu lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái. Nếu cha mẹ theo đạo Phật, tin theo luật nhân quả công bằng thì cũng nên giúp con học theo đạo Phật sống làm sao cố gắng gây tạo phước lành. "Vượt sướng" cũng là cách để tạo phước. Bởi vì hưởng sướng chỉ làm tăng thêm sự ích kỷ. "Vượt sướng" sẽ giúp trẻ sống vị tha, bao dung, nhân hậu và vì cộng đồng mọi người mà làm những điều thiện. Với mỗi một cá nhân, phước càng dày, nghiệp càng mỏng, do nhân quả công bằng, cuộc sống sẽ suôn sẻ hơn.



2014 sửa sai:
[[1]] Vị tu sĩ này chắc hẳn đã học rất kỹ giáo lý của Đại Thừa nên lời giảng của ông ta thấm đậm chất sử dụng “kiếp sau” như một công cụ để hù dọa hoặc dụ dỗ chúng sanh.

Download PDF một trong 2 link dưới đây:

Không có nhận xét nào: