Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

Nào thanh niên ta ơi hãy cố gắng đi lên hàng đầu...

Nào thanh niên ta ơi, hãy cố gắng đi lên hàng đầu...
Lên đầu rồi sẽ đi đâu?
Đi đâu không biết cứ đầu mà đi! (Sưu tầm)

1000 năm trước Việt Nam đã sử dụng wifi
Trong hội thảo quốc tế về truyền thông, một chuyên gia nghiên cứu người Nhật đào xuống dưới lòng đất của Nhật Bản đến độ sâu 5m phát hiện ra những chứng tích của việc sử dụng điện thoại và nêu ra kết luận:
- 50 năm trước đất nước chúng tôi đã sử dụng điện thoại
Một chuyên gia nghiên cứu người Mỹ đào xuống dưới lòng đất của Mỹ đến độ sâu 50m phát hiện ra những chứng tích của việc sử dụng "computer" và nêu ra kết luận:
- 100 năm trước đất nước chúng tôi đã sử dụng "computer"
Tới lượt chuyên gia của Việt Nam, ông này đào sâu vào lòng đất ở Việt Nam, đào mãi gần xuyên thủng trái đất vẫn không thấy gì. Chuyên gia Nhật và Mỹ đang cười khảy. Vị chuyên gia Việt Nam liên đưa ra kết luận:
- 1000 năm trước đất nước chúng tôi đã sử dụng wifi...
(Sưu tầm)


Mặc yếm cũng chưa chắc...

Ba đời đều không hiểu
Hôm nay nhà Ti náo động bởi tiếng la hoảng của bà nội:
– Cả nhà đâu, biết gì chưa?
– Bão Sơn Tinh quay lại hả nội?
– Cái này còn hơn bão nữa. Đang có một đợt ra quân...
Má Ti mừng rỡ:
– Thế là từ nay hết lo trộm cướp, giật dọc, ma tuý, tệ nạn xã hội...
– Đây đâu phải ra quân tấn công tội phạm mà là ra quân... kiểm tra áo ngực, tao nghe rõ ràng như thế! Thành ra trong ngày hôm nay tuyệt đối đàn bà con gái nhà này không được ra khỏi cửa!
Ti hoàn hồn:
– Nội nghe thì đúng nhưng hiểu sai rồi: vì vừa phát hiện áo ngực Trung Quốc có chứa hột lạ chất lạ nên cơ quan chức năng phải ra quân thu gom về kiểm tra.
– Hú hồn, vậy mà tao tưởng phụ nữ hôm nay ra đường sẽ bị bắt cởi áo lót nộp hết! Nhưng cái chất lạ đó là cái chi, nguy hiểm ra sao?

Má Ti thở dài:
– Có ai biết đâu, nhiều bà mặc ngứa ngáy quá mới rọc ra xem, thấy “vật thể lạ” nên đánh động cho mọi người biết. Mà nghe nói loại áo ngực này xuất hiện từ hồi nảo hồi nao nhưng chẳng cơ quan nào lưu tâm đến, nay chị em la quá nên mới có đợt “ra quân” rầm rộ như thế.
– Chà, thế thì nguy thật. Hay là...
– Đừng mặc áo ngực nữa hả nội?
– Mồ tổ mày! Mày không mặc thì mày không ngứa, nhưng người khác nhìn mày sẽ... ngứa! Nội định nói hay là quay lại xài yếm cho nó an toàn.
– Nội ơi, vấn đề đâu ở cái áo ngực hay cái yếm. Giờ mà con phát động phong trào xài yếm thì nay mai cũng sẽ xuất hiện... yếm Trung Quốc chứa vật thể lạ!
– Chết thật, đã có người gác cửa mà đồ độc hại cứ ngang nhiên tràn vào là sao!
– Nội còn không hiểu, làm sao tụi con hiểu?

 Mặc yếm cũng chưa chắc an toàn, híc!
 Xem ra chị em Âu tây thua chị em VN hàng trăm năm về cái khoản Yếm
 Không mặc không ngứa, người khác ngứa! (Má Ti)
Xem thêm:




2 nhận xét:

  1. Lâu rồi mới có một “đại dịch” lan nhanh và rộng trên thị trường toàn quốc đến như vậy, thế nên các cơ quan chức năng cứ hăm hở vào cuộc. Lẽ ra cần nhanh chóng khẳng định chất dịch nhầy và mấy viên hạt lạ kia là gì thì đã gần 1 tuần trôi qua không thấy đơn vị nào lên tiếng, chỉ thấy ồn ào chuyện thu giữ chỗ này vài nghìn chiếc, chỗ nọ vài trăm áo bị phát hiện tịch thu. Tiểu thương sợ mất tiền mất hàng mà cứ cuống cuồng cất giữ, tẩu tán đống áo lót đang đắt khách là thế. Mấy anh thị trường cũng được dịp khoe tài làm ăn. Đúng là cơ hội tốt, chỉ nhặt vài chiếc áo “xu chiêng” đã đủ lót tay cả chục triệu đồng. Dân thì hoang mang vì đã trót dùng bấy nhiêu năm nay, không biết đã bị gì chưa. Kẻ đi mua sắm thì nâng lên đặt xuống, hàng đẹp, hàng có thể là tốt thì ở trong các cửa hiệu hoành tráng, giá cao ngất trời, còn hàng vừa đủ khả năng thì lại dính chất lạ, dễ gây ung thư, hỏng cả đời con gái.

    Vạch vòi bới lá tìm sâu, sau khi sờ sờ nắn nắn cái áo ngực phụ nữ, cán bộ thị trường lại đòi giấy tờ hóa đơn, xuất xứ lô hàng, thấy hàng có nhãn Tàu là thu. Biết được bài này của cơ quan chức năng, mấy chị tiểu thương nhanh trí, giật mác Tàu, hoặc gắn mác Việt vào. Tem mác thì mua đầy ngoài chợ rẻ hều. Vừa không bị tịch thu, không mất tiền thậm chí còn bán được hàng. Ừ thì có ai kiểm tra với tịch thu hàng không phải của Trung Quốc đâu. Mà kể cả hàng gắn nhãn Việt Nam cũng vẫn đầy loại có “nước” để độn ngực bán giá tiền trăm đấy thôi, chỉ cần mất 2000 tiền mác là lãi lại còn tăng thêm những gần chục lần, tội gì mà không làm.
    (Click tiêu đề xem toàn bài)
    Nhưng người bán kẻ mua cứ hỏi nhau áo được độn bằng chất gì, nguy hại đến mức nào, song chẳng ai biết mà trả lời. Mới đây Sở Y tế Đà Nẵng mạnh mồm nói rằng “Đây là dung dịch dạng sệt, nhầy, có mùi hôi và có thể gây ngứa khi tiếp xúc. Còn chính xác là gì thì chờ kết quả kiểm nghiệm cuối cùng”. Rốt cuộc cũng chẳng có gì mới, vì từ đầu đã biết đó là chất nhày, gây ngứa. Chờ quan thì lâu lắm, chắc dân tự bỏ tiền túi, lọ mọ đến nhờ các nhà khoa học giải đáp giùm vậy.

    Mấy bà nội trợ bảo nhau “thằng Tàu thâm thật, nó đầu độc dân từ cái cây, ngọn cỏ, từ đồ ăn thức uống, đến đồ chơi con trẻ. Giờ đến đến cả chiếc áo lót phụ nữ nó cũng chẳng buông tha. Không tỉnh sớm thì cả thế hệ mắc bệnh, tật nguyền vì cứ thích thân dùng anh hàng xóm đểu này”.
    Trả lời
  2. Hình như phải cảm ơn cái coóc xê Hồ Cẩm Đào thật. Bởi việc họ biến “sân khách thành sân nhà”, biến chợ đầu mối hàng xóm thành chợ cóc nhà mình, biến thị trường hàng xóm thành cái hố rác thì đó là thành công, chứ đâu phải lỗi thất bại.

    Suốt tuần qua báo chí mở chiến dịch “áo ngực lạ”, QLTT khắp các tỉnh Đà Nẵng, Phú Yên, Quảng Ngãi, Hà Nội, TP HCM… “ra quân” kiểm tra, thu giữ áo ngực Tàu có chứa “vật thể lạ”. Các chuyên gia “mổ xẻ” áo ngực, đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng của từ này. Và tất nhiên, các bà, các cô nháo nhào “rạch áo”.
    Không khó để nhận ra sự “lên đồng” của dư luận không hoàn toàn là do chiếc áo con có liên quan đến phạm trù “sức khỏe”, mà chủ yếu do đó là hàng Tàu. Ở đây, chẳng có chính trị chính em gì hết. Vấn đề chỉ thuần túy là chất lượng hàng hóa. Đã qua rất lâu cái thời “máy khâu con bướm, xe phượng (hoàng), mũ cối, dép đúc” khi mà hàng Trung Quốc đồng nghĩa với sự vĩnh cửu. Cũng đã hết sự vồ vập ban đầu với bia Vạn Lực, xe “mui trần hai chỗ” hiệu Loncin. Không có tiền xài hàng Việt giá trên trời thì đành dùng hàng Trung Quốc, cỏ rác, nhưng có giá phù hợp với túi tiền. Tất nhiên, nói như một tiểu thương là “tiền nào của nấy”.

    Trong vô vàn những chi tiết xung quanh 6 viên “thuốc lạ”, và thứ “nước lạ trắng đục sờ thấy dính” bên trong chiếc áo bé bằng bàn tay, có hai câu chuyện to như con voi, và rất quen. Đó là cái giá bèo của những chiếc áo có khi chỉ 15 ngàn đồng. Và “tính hố rác” của thị trường Việt khi từ vỉa hè thành phố tới chợ cóc nhà quê đâu đâu cũng tràn ngập hàng Trung Quốc với tình trạng “3 không” điển hình: Không nguồn gốc xuất xứ. Không tem nhãn kiểm định. Không có cả một dòng chữ Việt.

    Nhớ hồi tháng 9, trong một tọa đàm về hàng Việt, ông Đỗ Xuân Thuỷ, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đồng Xuân cho biết cái chợ được xây dựng từ năm 1889 này có lượng luân chuyển hàng hóa đến 20 tấn/ngày và doanh thu hàng năm cỡ 4000 tỷ, đang sống nhờ “chủ yếu là hàng Trung Quốc”. Chủ yếu là bao nhiêu? Khoảng 90% các mặt hàng từ đồ lưu niệm, đồ chơi, điện thoại, cặp da, túi sách. Riêng hàng tạp phẩm, vải vóc, quần áo may sẵn, trong đó có chiếc áo con phụ nữ, con số này là 70%. Với thị phần toàn 70 với 90%, có lẽ, Đồng Xuân, từ nhiều năm nay, đã là cái chợ Trung Quốc chứ không phải chợ đầu mối lớn nhất miền Bắc nữa.

    Mà khoảng cách từ trụ sở Tập đoàn dệt may Việt Nam, doanh nghiệp top tỷ đô xuất khẩu, đến chợ Chợ Đồng Xuân nào có xa xôi gì (Chỉ cỡ 3km).
    Mà may cái áo con thì nào có khó như chế tạo phi thuyền để phải cần khoa học gia cỡ kỹ sư, tiến sĩ, viện sĩ.

    Chiếc áo nịt nói riêng và hàng Trung Quốc nói chung đang chiếm lĩnh thị trường Việt, từ ngôi chợ lâu đời nhất, lớn nhất ở Thủ đô, cho đến thị trường nông thôn bạt ngàn nhu cầu hàng giá rẻ. Chiếc áo ngực Trung Quốc đang rất rẻ. Đó là một thực tế. Rẻ đến mức có người tưởng mình nghe nhầm khi chiếc áo con có khi chỉ 15 ngàn đồng/chiếc. 15 ngàn, mà vẫn đảm bảo lợi nhuận, vẫn có thể chi trả tiền công chuyên chở. Và thậm chí, khiến những tiểu thương phải nói lời “cảm ơn hàng Trung Quốc”. Đây là câu chuyện mà bà Kim Hạnh, Chủ tịch Hội DN hàng Việt Nam chất lượng cao đã kể lại. Họ “cảm ơn hàng Trung Quốc” khi mà 40 năm bán hàng ở ngôi chợ lớn nhất miền Bắc này, chưa từng có 1 DN Việt đến tìm tiểu thương để bán hàng, thậm chí “chúng tôi kiếm họ còn rất khó”.
    Hình như cũng phải cảm ơn hàng Trung Quốc thật. Bởi việc họ biến “sân khách thành sân nhà”, biến chợ đầu mối hàng xóm thành chợ cóc nhà mình, biến thị trường hàng xóm thành cái hố rác thì đó là thành công, chứ đâu phải lỗi thất bại. Cũng còn vì câu chuyện cái áo 15 ngàn đồng có chữa “thuốc lạ”, “nước lạ” đang phơi bày một thực tế: Nhu cầu hàng giá rẻ, thực ra là hàng có giá thù hợp với điều kiện thu nhập của người lao động bình dân, đang bị chính các DN Việt xem thường. Và cái gì gọi là trách nhiệm xã hội của DN Việt thực chỉ là lời chót lưỡi đầu môi.

    Thôi thì đành hiểu là các DN Việt đang chỉ quan tâm đến việc bơi ra biển lớn nên chẳng buồn quan tâm đến chuyện lẻ tẻ. Nhưng liệu có thể nói tới chuyện bơi ra biển lớn khi đang chết chìm trong ao làng?
    Đào Tuấn


Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

Đỗ Tuyết Khanh: Alice Munro và những cơn sóng ngầm của cuộc sống

http://en.wikipedia.org/wiki/Alice_Munro


http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/alice-munro-va-song-ngam

Bạn đang ở: Trang chủ › Biên khảo › Alice Munro và những cơn sóng ngầm của cuộc sống

Alice Munro và những cơn sóng ngầm của cuộc sống

« Tôi thật sự hi vọng nhờ vậy truyện ngắn sẽ được xem như một nghệ thuật quan trọng, chứ không chỉ là cái viết chơi mày mò cho đến khi viết được truyện dài ».


tua

Đỗ Tuyết Khanh



Giải Nobel văn chương năm nay đánh dấu hai sự đầu tiên : Alice Munro là nhà văn Canada đầu tiên1 đoạt giải này và đây cũng là lần đầu Hàn lâm viện Thuỵ Điển vinh danh một tác giả chuyên viết truyện ngắn, một thể loại thường bị xem là thứ yếu trong làng văn. Có lẽ cũng để cô đọng như thể văn này, lời giới thiệu của Uỷ ban Nobel, thường rất hoa mỹ thậm chí đôi khi rườm rà khó hiểu, năm nay rất ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn một câu “Alice Munro, bậc thầy của truyện ngắn đương đại” (“Alice Munro, master of the contemporary short story”). Trên 110 người đã được trao giải Nobel văn từ năm 1901 cho tới nay, Alice Munro mới chỉ là tác giả nữ thứ 13. Như mọi năm, gần đến mùa Nobel, bên cạnh các phỏng đoán, cá cược về người sẽ đoạt giải văn, dư luận làng văn lại nhắc nhở, chỉ trích sự chênh lệch nam nữ thái quá này. Không biết có phải để “trả đũa” mà Uỷ ban Nobel đã chọn từ “master”, một danh từ trung tính nhưng thường hàm ý phái nam (cũng như chữ “thầy”), thay vì “queen”, chẳng hạn, trong lời giới thiệu. Alice Munro năm nay 82 tuổi nhưng không phải là người cao niên nhất khi đoạt giải, kỷ lục ấy vẫn thuộc về Doris Lessing, Nobel 2007 lúc 88 tuổi.
Trước khi được giải Nobel, Alice Munro đã được trao nhiều giải văn học lớn, cho hầu hết các tuyển tập truyện ngắn của bà: ba lần giải Governor General's Award for Fiction, là giải văn học lớn nhất của Canada, hai lần giải Giller Prize, và các giải Canadian Booksellers Award, Trillium Book Award, National Book Critics Circle Award (Mỹ), WH Smith Literary Award (Anh), Commonwealth Writers Prize, O.Henry Award, PEN-Malamud, v.v. Năm 2009, bà được trao giải Man Booker International Prize của Anh, là giải văn học quốc tế lớn nhất dành cho các tác giả Anh ngữ, cho toàn bộ các sáng tác của bà. Truyện ngắn của Alice Munro thường xuất hiện trên các tập san lớn như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review, và được đăng lại trong 14 tuyển tập, mỗi cuốn cách nhau ba hay bốn năm, từ 1968 đến 2012.
Alice Munro cũng không thiếu chức danh và danh hiệu: viện American Academy of Arts and Letters bầu chọn bà là thành viên danh dự người nước ngoài năm 1992, bà được Royal Society of Canada trao tặng huy chương Lorne Pierce Medal năm 1993, và National Arts Club của Mỹ tặng thưởng huy chương Medal of Honor for Literature năm 2005. Năm 2010, bà được nước Pháp phong chức danh Chevalier de l’Ordre des arts et des lettres. Trong giới văn học, bà thường được khen ngợi và mệnh danh là một Tchekhov của Canada,
Alice Munro là người kín đáo, sống ở Clinton, một thành phố nhỏ tiểu bang Ontario, gần hồ Huron, ít xuất hiện trong những buổi tiệc tùng xã giao, sự kiện thời thượng, và ít trả lời phỏng vấn. Những năm sau này, bà thường xuyên được nhắc đến như một trong những nhà văn xứng đáng đoạt giải Nobel nhưng cũng thường xuyên với lời bình là khả năng này rất nhỏ vì bả chỉ viết truyện ngắn. Phản ứng của bà sau khi biết tin được giải : « Thật là tuyệt vời cho tôi. Vả tuyệt vời cho truyện ngắn. Tôi rất vui vì giải này sẽ làm rất nhiều người Canada hài lòng, và văn học Canada được chú ý nhiều hơn ». Bà cũng nói : « Tôi thật sự hi vọng nhờ vậy truyện ngắn sẽ được xem như một nghệ thuật quan trọng, chứ không chỉ là cái viết chơi mày mò cho đến khi viết được truyện dài »(*).

Những gốc rễ của một văn nghiệp phong phú


Alice Ann Laidlaw sinh ngày 10.7.1931 tại Wingham, tiểu bang Ontario, mẹ, Anne Clarke Laidlaw, là cô giáo và cha, Robert Eric Laidlaw, làm nghề nuôi chồn và cáo xám bạc để lột da bán. Thời kỳ kinh tế suy thoái, làm ăn thua lỗ, ông Laidlaw chuyển sang nuôi ngỗng cũng thất bại, hết vốn liếng ông xin vào làm gác dan đêm cho xưởng đúc của thành phố. Năm Alice 10 tuổi, mẹ của cô mắc phải một dạng hiếm của bệnh Parkinson, sức khoẻ ngày càng suy yếu và đời sống gia đình càng khó khăn chật vật.
Thời ấy, trong một xã hội còn duy trì những phong tục, truyền thống văn hoá và tôn giáo của những cộng đồng di dân đến lập nghiệp vào thế kỷ 19, để thoát khỏi hoàn cảnh, các cô gái nghèo chỉ có hai con đường: lấy được chồng giàu hay đi học làm cô giáo. Từ nhỏ Alice đã phải đối mặt với nghèo đói, của gia đình và chung quanh, bệnh tật nan y, sự hung bạo ở nhà, ở trường học và ngoài xã hội, chỉ có thể thoát qua trí tưởng tượng, của người khác, rồi của chính mình. Lối thoát đầu tiên là sách vở, cô say mê đọc đi đọc lại những tác phẩm ưa thích nhất, đặc biệt quyển Wuthering Heights của Emily Brontë. Khi đọc sách vẫn chưa đủ, cô bắt đầu tập viết văn, tự tạo ra thế giới hư cấu của chính mình. « Sách vở có gì thần diệu trước mắt tôi và tôi muốn thành một phần của sự thần diệu ấy. Đối với tôi sách quan trọng hơn hết, quan trọng hơn cuộc sống rất nhiều ». Giấc mơ thành nhà văn, sống để viết, tuy không thể thổ lộ với ai, bắt đầu từ đấy.
Mười tám tuổi, Alice tốt nghiệp trung học với điểm cao nhất địa phương, được học bổng hai năm đi học Anh ngữ và học viết báo tại đại học Western Ontario. Học bổng chỉ đủ mua sách vở và trang trải một phần chi phí, cô phải xoay sở kiếm thêm : bán máu, hầu bàn, tỉa cây thuốc lá, làm trong thư viện. Năm 1951, hết học bổng cô phải bỏ học và đứng trước sự lựa chọn : lấy chồng – nhận lời cầu hôn của một anh sinh viên bạn – hay trở về nhà lo cho mẹ. Cô quyết định lo cho chính mình và thành hôn với Jim Munro, nhưng sự thoát ly phải trả giá bằng mặc cảm tội lỗi đeo đẳng suốt đời.
Hai vợ chồng trẻ, chỉ mới 20 và 22 tuổi, về sống ở Vancouver. Jim cai quản một cửa hàng bách hoá và Alice đóng vai trò nội trợ trong một gia đình trung lưu tiêu biểu của những năm 1950. Những đứa con nhanh chóng ra đời, Sheila, khi Alice mới 21 tuổi, Catherine – chỉ sống được 2 ngày sau khi sinh – rồi Jenny và Andrea. Năm 1963, gia đình Munro dời về Victoria, thủ đô tiểu bang British Columbia, mở tiệm sách Munro’s Books, hiện vẫn hoạt động và nổi tiếng là một nhà sách chất lượng cao, kiên trì trước sự cạnh tranh của các siêu thị và đại công ty sách.
Song cuộc hôn nhân khập khiễng ngay từ đầu giữa một người chồng gia trưởng, xuất thân từ một gia đình khá giả và có khuynh hướng bảo thủ, và một Alice phóng khoáng, ngày càng bị giằng co giữa những bổn phận làm vợ, làm mẹ, giúp chồng bán sách, và con người riêng của mình, những nhu cầu của bản thân, nhất là cái thôi thúc từ thuở nhỏ: viết văn. Vì Alice không ngừng viết, truyện ngắn đầu tiên ra mắt độc giả, The Dimensions of a Shadow, đăng trên tập san của đại học Western Ontario năm 1950, khi Alice mới 19 tuổi. Từ đó cô bắt đầu viết cho những tập san văn học Canada như Tamarack Review và Canadian Forum, tham gia chương trình « Anthologies » của đài phát thanh Canadian Broadcasting Corporation (CBC). Robert Weaver, chủ nhiệm chương trình này, là người có công lớn khuyến khích Alice đeo đuổi nghề văn, giúp các sáng tác của cô ngày càng được biết đến và ưa chuộng rộng rãi hơn. Song phải đợi đến 1968 tập truyện đầu tiên của Alice mới ra đời, Dance of the Happy Shades đoạt ngay giải Governor General's Award for Fiction, giải văn học lớn nhất của Canada. Tập truyện Lives of Girls and Womenxuất bản năm 1971 đoạt giải Canadian Booksellers Award, củng cố vị trí của Alice như một nhà văn tài năng, được cả độc giả lẫn đồng nghiệp mến phục. Việc viết lách được người thân nể nang hơn nhưng cũng đào sâu hơn mâu thuẫn giữa các bổn phận gia đình và những đòi hỏi thì giờ và tâm trí của nghề văn. Những khác biệt về tính tình, quan điểm giữa hai vợ chồng cũng gay gắt hơn, những trăn trở của Alice như hoà theo biến chuyển của xã hội thời ấy, những thập niên 1960, 1970, với các phong trào giải phóng phụ nữ, cách mạng tình dục. Cuộc hôn nhân ngày càng rạn nứt.
Năm 1973, Alice ly dị sau 22 năm sống với Jim Munro, công việc viết văn càng cấp bách khi trở thành phương tiện mưu sinh. Cô về dạy văn tại đại học York University gần Toronto và sau đó được đại học Western Ontario mời về đảm nhiệm một số hoạt động văn học. Cô gặp lại một người bạn cũ thời sinh viên, Gerald Fremlin, mà cô thầm yêu cách đó 20 năm. Họ hẹn nhau ăn trưa và chỉ sau ba ly martini quyết định sống chung. Gerry Fremlin là người cùng quê với Alice, mẹ của ông lúc ấy bệnh nặng cần được chăm sóc nên họ dọn về ở với bà cụ trong ngôi nhà Gerry sinh ra, ở thành phố Clinton, cách Wingham, nơi sinh của Alice, chỉ vài chục cây số. Họ cưới nhau năm 1976 và ở luôn trong ngôi nhà ấy cho đến bây giờ. Gerry Fremlin đã qua đời tháng 4. 2013.
Như một cái vòng được khép lại, Alice trở về với những khung cảnh thiên nhiên và xã hội của nơi sinh ra và lớn lên, đã góp phần hun đúc tâm hồn, tư duy và cá tính của cô, và là bối cảnh của hầu hết các sáng tác ngay từ ban đầu : những tỉnh lẻ quanh hồ Huron, những nông trại, đồng lúa, khu rừng, sông ngòi, đầm nước, quen thuộc với độc giả tới mức được mệnh danh là Munro County. Trong các bản tin và bài báo vừa qua, sau khi giải Nobel được công bố, tất nhiên có câu chơi chữ thế nào cũng gặp phải « Alice in Nobel land »2 nhưng nếu đã « lẩy Kiều » thì đúng hơn phải là « Alice in Munroland ».

Những con người và cuộc đời trong thế giới Munroland


Tóm tắt cuộc đời của Alice Munro cũng là tóm tắt nội dung các sáng tác của bà. Những gì đã trải qua hay chiêm nghiệm là chất liệu được pha trộn, hư cấu hoá, thay đổi ít nhiều từ truyện này sang truyện kia nhưng vẫn rõ nét, như một nhịp điệu trở đi trở lại trong bản nhạc: một người thân, thường là người mẹ, bị bệnh nặng vô phương cứu chữa, một ông chồng khó tính và độc đoán, những cô gái nửa quê nửa tỉnh đi tìm chỗ đứng trong xã hội, sự xung đột ngấm ngầm hay lộ liễu giữa những tầng lớp giai cấp khác nhau, những số phận hèn mọn, cuộc đời gian truân, những hôn nhân tan vỡ đôi khi vì cái không đâu, những người đàn bà ngoại tình có khi chỉ vì một phút bốc đồng hay ham muốn tình dục. Và rất nhiều những ra đi, xoay lưng lại với tất cả : chồng bỏ vợ, vợ bỏ chồng, con bỏ cha mẹ, một người đàn ông hỏi cưới một cô gái và đổi ý vào phút chót, không một lời giải thích.
Thế giới Munroland là những tâm trạng bất an, phân vân trước những đòi hỏi trái ngược, những tình huống bấp bênh có thể đảo lộn bất cứ lúc nào theo một chiều hướng bất ngờ và không nhất thiết hợp lý. Đằng sau mặt kính trong trẻo của cuộc sống hàng ngày là những lừa dối, dối nhau hoặc tự dối lòng, những phản bội nho nhỏ hay ghê gớm, những gì không nói ra được hay không thể tự giải thích. Những cơn sóng ngầm dưới mặt hồ phẳng lặng.
Alice khám phá thế giới vô hình ấy qua những thể hiện tầm thường của cuộc sống, tìm vào các ngõ ngách của tâm hồn qua những đi đứng, ăn nói thường ngày. « Cuộc đời của thiên hạ, ở Jubilee hay ở bất cứ đâu, đều tẻ nhạt, giản dị, kỳ lạ và sâu thẳm – những hang động sâu hun hút lót thảm lino của nhà bếp. » (Epilogue : The Photographer, trong Lives of Girls and Women, 1971). Phương tiện cho mục đích ấy là một cái nhìn sắc bén, một ngôn ngữ giản dị, trong sáng, không cầu kỳ uốn éo nhưng đánh mạnh vào cảm xúc người đọc.
Alice diễn tả rất tài tình sự đau khổ. Những nỗi đau thầm kín, câm lặng :
Giống như có một mũi kim ác nghiệt cắm đâu đó trong phổi nàng, nếu thở từ tốn thì không cảm thấy gì. Nhưng lâu lâu phải thở mạnh, nó vẫn nhói lên ở đó” 
(Runaway, 2004)
Hay cái cào xé trong một cô gái trẻ có ba đứa con nhỏ bị chồng giết trong một lúc nổi cơn giận vợ :
Doree chạy ra khỏi nhà, bước loạng choạng trên sân, hai tay ôm ghì lấy bụng như vừa bị chém ngang người và đang cố giữ cho khỏi bung ra …Dạo ấy Doree cứ nhồi nhét vào miệng bất cứ gì quơ được. Hết đất cát, cỏ lá, đến chăn mền, khăn tắm và cả quần áo của mình. Thể như nàng muốn kìm hãm tiếng gào thét chỉ chực trào ra cùng với những hình ảnh quay cuồng trong đầu.” 
(Dimensions, trong Too much Happiness, 2009)
Trầm tĩnh hơn nhưng cũng mãnh liệt không kém ở một bà mẹ khác, bỏ chồng ra đi và chồng nhất quyết không cho đem con theo:
Cái này là đau buốt đây. Nó sẽ thành kinh niên. Kinh niên tức là thường xuyên nhưng chắc cũng không phải là liên tục không dứt. Cũng có nghĩa là không chết người. Mình sẽ không khỏi được nhưng sẽ không chết. Sẽ không cảm thấy nó mỗi giây phút nhưng cũng sẽ không thoát khỏi nó trong nhiều ngày. Và mình sẽ học được vài mánh để làm dịu nó hay quên nó đi, để đừng rốt cuộc lại phá vỡ cái mà vì mình muốn có nên phải chịu nỗi đau này. Không phải lỗi của Brian. Anh vẫn là con người ngây thơ hay hoang dã, anh không biết ở đời có những nỗi đau dai dẳng như thế này. Hãy tự nhủ, đằng nào cũng mất con. Tụi nó sẽ lớn lên. Bà mẹ nào rồi cũng sẽ đến lúc gặp cái buồn riêng tư, hơi vô duyên ấy. Con rồi nó sẽ tha thứ khoảng thời gian này, nó sẽ bỏ mình, cách này hay cách khác. Hoặc cứ bám theo mình cho đến lúc mình không biết làm gì với nó, như Brian vậy.
Nhưng mà sao vẫn đau quá. Cái đau phải mang theo và quen với nó cho đến khi cái tiếc nuối chỉ là quá khứ chứ không phải một hiện tại có thể có.
(The Children Stay, trong The Love of a Good Woman, 1998)
Đa số các nhân vật chính của Alice là phụ nữ. Nhưng bà cũng đồng cảm với những đau đớn của người nam. Ở đây, một người đàn ông, vợ mất sau 4 năm hôn mê trong bệnh viện:
Họ tìm anh khắp nơi. Cuối cùng Isabel cũng đã ra đi. Họ nói “ra đi” thể như nàng ngồi dậy rồi đi ra. Cách đấy chỉ khoảng một giờ, có người ghé vào xem, nàng vẫn thế, và bây giờ nàng đã ra đi. Anh đã thỉnh thoảng tự hỏi, lúc ấy sẽ có khác gì không. Nhưng cái khoảng trống vắng thay cho nàng thật kinh dị … Anh tưởng cái này đã xảy ra với Isabel từ lâu rồi, nhưng không phải. Bây giờ nó mới thế. Lúc trước nàng có đó và bây giờ nàng không có đó. Không một tí ti nào. Như chưa bao giờ có đó. Và mọi người tất bật chung quanh, thể như cứ thu xếp những chuyện cần làm là có thể vượt qua cái khủng khiếp này. Anh cũng tuân theo thủ tục, ký vào chỗ người ta bảo ký, thu xếp  như người ta nói  cho cái di hài. Di hài, chữ nghĩa hay thật, cứ như cái gì để quên, khô queo trong một ngăn tủ đầy bồ hóng. Và chỉ ít lâu sau, anh thấy mình đã ở ngoài đường, tự bảo mình cũng đầy đủ lý do như ai để chân này bước trước chân kia. Cái anh mang theo, tất cả những gì anh mang theo, là một thiếu vắng, thiếu không khí, thiếu hoạt động bình thường của phổi, một khó nhọc chắc sẽ không bao giờ hết 
(Leaving Maverley, trong Dear Life, 2012)
Đau khổ, cô đơn và mất mát. Mất vì bệnh tật cướp đi, vì một oái oăm của định mệnh, vì hậu quả hành động của chính mình, nhưng cũng vì một quyết định không thể hiểu được của người kia. Một người chồng bỗng dưng bỏ đi, một đứa con biến mất, không một lời từ biệt, giải thích, để lại những câu hỏi day dứt không bao giờ được trả lời.
Và nửa tiếng sau khi lão kia đi, bà cụ kể, ông Fullerton khoác cái áo vét nâu, đội mũ. Tôi phải xuống gặp một anh chàng dưới phố. Anh đi bao lâu, tôi nói. Ờ, một lát thôi. Thế là ông ta ra đường, đi theo hướng lão kia vừa đi – hồi đó tụi tôi còn ở ngoài rừng – và cái gì đó khiến tôi nhìn theo ông. Mặc cái áo đó chắc ảnh nóng lắm. Và lúc đó tôi biết ổng sẽ không trở về. Mà làm sao tôi có thể ngờ, ổng thích chỗ này lắm. Mới đó còn bàn chuyện đem sóc len về nuôi sau nhà. Đàn ông họ nghĩ gì trong đầu, chẳng bao giờ biết được, dù có sống chung một nhà
(The Shining Houses, trong Dance of the Happy Shades, 1968).
Con gái tôi bỏ đi, không một lời từ biệt mà có lẽ nó cũng không biết lúc ấy là nó đã bỏ đi. Nó không biết là nó đi luôn. Rồi lần lần, chắc thế, nó hiểu ra là nó không muốn về chút nào. Đó chỉ là một quyết định cho cuộc đời của nó từ nay. Có thể là nó lúng túng, ngại phải giải thích cho tôi. Hay không tìm ra lúc. Mình cứ nghĩ là cái gì cũng phải có lý do này nọ, rồi phải tìm hiểu cho bằng được. Tôi có thể nói cả trăm thứ tôi đã làm sai. Nhưng có thể lý do ở đây không dễ thấy. … Juliet vẫn mong có ngày có tin từ Penelope, nhưng là mong phất phơ vậy thôi. Bà hi vọng như người khôn lanh hi vọng được ban ơn dù không xứng đáng, được tự nhiên khỏi bệnh, đại loại vậy
(Silence, trong Runaway, 2005)
Có thể hiểu tại sao có người thấy truyện của Munro nặng nề, bi quan, đọc xong chán đời quá. Song phê bình thế cũng oan vì người đọc vẫn thỉnh thoảng bật cười trước một nhận xét dí dỏm, so sánh ngộ nghĩnh và độc đáo. Như ở đây, sự đỏm đáng của hai cô gái mới lớn dưới con mắt đứa em trai:
Có khi một trong hai bà chị đứng trước gương cả hai mươi phút hay hơn nữa, ngắm nghía mình dưới đủ mọi góc cạnh, kiểm tra răng lợi, hết vén tóc ra sau lại xoã ra phía trước. Rồi cô nàng đi ra, có vẻ hài lòng hay ít ra cũng xong việc, nhưng chỉ đến căn phòng khác, tấm gương khác là làm lại hết từ đầu, cứ như vừa được gắn một cái đầu mới toanh
(The Love of a Good Woman, trong tuyển tập cùng tên, 1998).
Hoặc :
Mùa hè có khi buổi trưa cô Moira chạy xe 15 cây số từ Porterfield lên Jenkin’s Bend đưa con gái Mary Agnes lên chơi. Cô Moira biết lái xe. Cô Elspeth và cô Grace phục lắm (mẹ tôi cũng đang học lái xe, hai cô bảo chậc, chỉ liều lĩnh, học làm gì). Khi thấy chiếc xe mui vuông kiểu cổ băng qua cầu lên dốc từ bờ sông, hai cô chạy ra đón, mừng rỡ rối rít, xuýt xoa tấm tắc cứ như cô em vừa tìm được lối đến sau khi vượt sa mạc Sahara chứ không phải trên con đường đầy nắng bụi từ Porterfield
(Heirs of the Living Body, trong Lives of Girls and Women, 1971).

alice

Và ở đây Alice chỉ cần vài câu để cho thấy một người đàn ông tính xét nét khó chịu, không hiểu vợ ngay cả khi nàng châm biếm:
Trên lò sưởi có hai chiếc bình Wedgwood3 tô điểm bằng một vòng tròn lá xanh. Patrick rất thích chúng. Có khi đi làm về, anh đi thẳng vào phòng khách và xê đi xê lại hai cái bình anh thấy có vẻ bị xô đẩy không còn ngay ngắn.
« Có ai nghịch mấy cái bình này không đấy ? »
« À có. Hễ anh vừa đi làm là em chạy ngay vào đẩy tới đẩy lui. »
«  Anh muốn nói Anna kìa. Em không để con bé sờ mó vào đấy chứ ?» 
(Mischief, trong The Beggar Maid, 1978).
Trào lộng cũng là cách thể hiện sự khoan dung của Alice đối với nhân vật, kể cả những nhân vật xấu tính. Bà đồng cảm nhất với những người là nạn nhân, của hoàn cảnh, của số mệnh, những số phận hẩm hiu, những người dị dạng, khuyết tật, thường xuất hiện trong nhiều truyện. Bà bao dung với những vụng về, lố bịch, hay ngu ngốc vì cái hay cái dở đều nằm trong số phận làm người. Sự đồng cảm với những người bị xã hội khinh rẻ hay ruồng bỏ cũng xuất phát từ cảm giác, có từ thuở ấu thơ, bị hắt hủi vì không vào khuôn phép. Là một đứa trẻ ương ngạnh, hay cãi lại và lý sự, Alice thường phải chịu những trận đòn nhừ tử của cha (như mô tả trongRoyal Beatings). Trong một xã hội còn phong kiến và tôn ti đẳng cấp, cô phải che giấu những mong ước, tham vọng, bị coi là điên rồ và ảo tưởng đối với một cô gái, nhất là nghèo. Cuộc hôn nhân với một người khác giai cấp cũng mang đến những khổ tâm, phân tâm, giữa sự hoà đồng cần thiết vào gia đình trưởng giả của chồng và gốc gác nghèo hèn của gia đình mình. Trong tập truyện The Beggar Maid (1978), nghèo nàn được miêu tả sống động, có lúc sống sượng, vì thực tế nó là thế. Như trong đoạn về nhà vệ sinh ngoài trời dành cho nữ sinh của trường nơi nhân vật Rose đã học :
Tuyết đắp dày cui trên chỗ ngồi và mặt đất. Dường như nhiều người không nghĩ đến nhắm cái lỗ. Trong đống tuyết, dưới một lớp băng nơi tuyết vừa tan lại đông đặc lại, là những đống phân chỗ ê hề, chỗ đơn chiếc, như được bảo quản dưới kính, từ vàng khè đến đen thui và đủ mọi màu ở giữa. Chỉ nhìn thôi Rose đã buồn nôn, và tuyệt vọng. Nàng đứng trước cửa, không thể cố bước vào, quyết định nhịn. 
(Privilege, trong The Beggar Maid, 1978)
Đấy là chuyện một trường nghèo ở vùng quê Canada cách đây đã sáu, bảy chục năm. Thật buồn và thương học sinh, sinh viên ở Việt Nam ngày hôm nay có nơi vẫn còn chịu cái cảnh phải nhịn ấy.
Những đối chọi giữa giàu nghèo thường nổi rõ hơn cả với cái gì trần tục, tầm thường nhất:
Flo dành dụm tiền xây buồng tắm trong nhà nhưng không có chỗ nào khác ngoài góc bếp. Cửa không kín, tường chỉ là ván ép. Kết quả là một tiếng xé giấy, một cái nhích mông đều rõ mồn một cho ai đang làm việc, nói chuyện hoặc ăn trong bếp. Người trong nhà quen những âm thanh thầm kín của nhau, không chỉ những lúc nổ đùng mà cả những khẽ thở dài, sôi ùng ục, ậm ạch, và khai báo. Và họ đều là những người cả thẹn lắm. Thế nên chẳng bao giờ có ai tỏ vẻ nghe thấy gì hoặc lắng tai để ý, không có một lời bình phẩm nào. Người làm ra các tiếng động trong buồng tắm không dính dáng gì với người từ trong đó đi ra” 
(Royal Beatings, trong The Beggar Maid, 1978).
Điều rõ nhất với căn nhà của bà Henshawe và của Flo, Rose nghĩ vậy, là cái này phản lại cái kia. Trong những căn phòng thanh lịch của bà Henshawe, Rose lúc nào cũng nhớ đến cái thực tế trần trụi ở nhà, như cái cục gì mãi vẫn không tiêu. Và khi về nhà, cái nền nếp hài hoà của nơi kia làm lộ rõ cái nghèo nàn tội nghiệp, xấu hổ của những người không hề nghĩ mình nghèo. Nghèo không chỉ là nghèo kiết xác, như bà Henshawe có vẻ nghĩ thế, nó không chỉ là thiếu thốn. Nó có nghĩa là gắn những cái đèn nê-ông xấu xí và hãnh diện về chúng. Là lúc nào cũng nói chuyện tiền bạc và xầm xì về những thứ thiên hạ mới sắm, không biết họ đã trả xong hết chưa. Là hãnh diện và ganh tị về cặp rèm giả đăng-ten bằng nhựa Flo mua về treo lên cửa sổ phòng khách. Nghèo cũng có nghĩa là phải móc quần áo lên cái đinh đằng sau cửa và nghe mọi tiếng động thoát ra từ buồng tắm
(The Beggar Maid, 1978)
Alice không giáo điều, không tuyên bố những câu đao to búa lớn. Quan điểm chính trị xã hội ít được đề cập và chỉ thể hiện gián tiếp như trong đoạn sau :
Trong lán có một cái lò và nhiều kệ bằng gỗ tạp ngổn ngang những thùng sơn và dầu quang, hũ sen-lắc và dầu thông, lon dùng để rửa cọ và cả vài chai thuốc ho sậm đặc. Tại sao một người đàn ông ho kinh niên, phổi đã nếm khí độc trong Chiến Tranh (lúc Rose còn nhỏ xíu, người ta vẫn gọi là Chiến Tranh Vừa Qua chứ không phải Thứ Nhất), lại phải ngày qua ngày hít thở hơi bốc từ sơn và dầu thông? Thời đó những câu hỏi kiểu ấy ít được đặt ra hơn bây giờ. Trên băng ghế trước cửa tiệm của Flo mấy ông già hàng xóm ngồi tán dóc, ngủ gật, hứng nắng, nhiều ông cũng suốt ngày ho hen như vậy. Thực tế là họ đang chết dần, từ từ và lặng lẽ, do cái “bệnh xưởng đúc”, gọi thế thôi nhưng chẳng hàm ý oán trách gì lắm đâu. Họ đã làm cả đời trong cái xưởng đúc của thành phố và bây giờ họ ngồi yên, với khuôn mặt tàn tạ vàng vọt, húng hắng ho, cười khục khặc, thỉnh thoảng buông vài câu sàm sỡ bâng quơ về một phụ nữ đi ngang qua hay một cô gái đạp xe trên đường 
(Royal Beatings, trong The Beggar Maid, 1978)
Đồng cảm với người khác cũng có nghĩa chấp nhận là có những điều mình sẽ không bao giờ được biết, một vườn riêng, không gian riêng mình không được vào dù mình có gần gũi bao nhiêu với người ấy. Trong Walker Brothers Cowboy, hai đứa bé đi theo cha trong một chuyến chào hàng. Trên đường về người cha ghé vào căn nhà một bà cụ và một người đàn bà, người quen cũ của ông nhưng ông không nói họ là ai. Và tuy ông không dặn dò, cô bé cũng hiểu là đây là chuyện riêng của ông, không cần kể lại cho ai và với mẹ ở nhà.
Cha tôi lái xe, thằng em tôi nhìn hai bên đường xem có con thỏ nào không và tôi cảm thấy như cuộc đời của cha tôi trôi qua theo chiếc xe trong bóng chiều tà, tối sẫm lại và trở thành khác lạ, như một phong cảnh kỳ diệu trước mặt trông vẫn ấm áp, bình thường và quen thuộc nhưng sau lưng biến thành một cái gì không bao giờ có thể đoán biết, với đủ mọi màu trời và khoảng cách không thể mường tượng
(Walker Brothers Cowboy, trong Dance of the Happy Shades, 1968).

Bậc thầy của truyện ngắn


Được hỏi tại sao bà chỉ viết truyện ngắn, Alice trả lời là vì khi còn trẻ, bà có rất ít thì giờ, giữa các công việc nội trợ, lo cho mấy đứa con nhỏ, và lúc ở Victoria, còn phải làm nửa ngày ở tiệm sách. Và ngay những lúc ngắn ngủi xén bớt được trên thì giờ phải dành cho các bổn phận khác cũng không hoàn toàn rảnh rang để tập trung vào viết lách, với những quấy rầy chung quanh và mặc cảm tội lỗi bỏ bê việc nhà. Bà nhớ lại những lúc đứa con gái đầu, Sheila, khi ấy hai tuổi, mon men lại gần, bà thường một tay xua con ra chỗ khác, tay kia vẫn tiếp tục đánh máy. Trong một buổi phỏng vấn với nhà văn Graeme Gibson, năm 1973, bà nói : “Trong suốt hai mươi năm, không có ngày nào mà tôi không phải bận tâm về nhu cầu của một người khác. Và như vậy có nghĩa là viết lách phải được sắp xếp song song hoặc trước sau những công việc ấy … Sáng tác được gì trong điều kiện ấy quả là một phép lạ”.
Không ngạc nhiên mà Alice cảm thấy phải có một không gian riêng cho mình:
Đàn ông có thể làm việc ở nhà, không có vấn đề. Ông đem việc về nhà, đã có chỗ dọn riêng cho ông, mọi chuyện trong nhà sắp xếp lại xoay quanh ông. Công việc của ông là hiển nhiên, ai cũng hiểu thế. Không ai chờ đợi ông trả lời điện thoại, tìm hộ cái gì lạc đâu mất, ra xem tại sao trẻ con khóc hay cho con mèo ăn. Ông có thể đóng cửa phòng. Nhưng thử tưởng tượng bà mẹ nào đóng cửa phòng, đối với lũ trẻ ở ngoài, ô hay sao lại có thể thế được. Một người đàn bà ngồi thẫn thờ, nhìn xa xăm vào một thế giới trong đó không có bóng dáng chồng con là phản lại luật của trời đất. Nhà và phụ nữ, do đó khác lắm. Người đàn bà không bước vào nhà, làm gì đó rồi lại đi ra. Nàng  căn nhà, không thể tách rời.” 
(The Office, trong Dance of the Happy Shades, 1968).
Alice đã diễn đạt cụ thể những ý của nhà văn Anh Virginia Woolf trong bài tiểu luận bất hủ A Room of one own. Song những sáng tác phong phú của bà, trải dài trên mấy chục năm, không là phép lạ mà kết quả của tài năng, sự say mê, và tính cần mẫn thừa hưởng từ truyền thống Presbyterian trong giáo dục của gia đình và xã hội. Một quá trình sáng tác dài như thế tất nhiên có những thay đổi cả hình thức lẫn nội dung, phản ánh những biến chuyển sâu rộng trong suốt thời kỳ Alice đã sống. Alice 8 tuổi khi Canada tham gia Đệ nhị thế chiến năm 1939, học đại học những năm sau chiến tranh và 38 tuổi khi các phong trào giải phóng phụ nữ và hippie đạt cao điểm vào những năm 1968-69. Bà 50 tuổi khi bước vào thập niên 1980, và đại đa số các tác phẩm của bà đặt trong bối cảnh của nửa thế kỷ ấy, từ những thập niên 1930 đến 1980.
So sánh các tập truyện đầu tiên và cuối cùng, có thể nhận thấy một số khác biệt. Những truyện đầu tiên có nhiều tính chất tự truyện hơn, dày đặc hơn vì còn quá nhiều thứ để nói, để tuôn vào, dù cái tài cấu trúc và lối hành văn gãy gọn, cái “giọng” rất đặc biệt của Alice đã hiện rõ. Điều dễ hiểu là khi còn trẻ, chất liệu chính của mỗi nhà văn là cuộc sống của chính mình, cái quá khứ còn rất gần, chi phối mạnh mẽ mọi cảm xúc. Càng sống lâu, cảm hứng càng đến từ bên ngoài nhiều hơn, chất liệu là chiêm nghiệm những gì đã nghe, thấy hơn là những trải nghiệm của bản thân. Như Alice nói, với cái dí dỏm cố hữu, khi trả lời phỏng vấn của The Paris Review, hè 1994 :
Bây giờ tôi ít viết truyện riêng tư hơn lúc trước vì lý do rất dễ hiểu. Tuổi ấu thơ đã khai thác hết, trừ phi có thể, như William Maxwell, mỗi lần quay về vẫn tìm ra những cái tuyệt vời mới trong đó. Cái chất liệu sâu sắc, riêng tư trong nửa cuộc đời còn lại là những đứa con. Mình có thể viết về cha mẹ khi họ đã khuất, nhưng con cái thì vẫn còn đây và mình sẽ cần nó vẫn còn muốn đến thăm mình trong viện dưỡng lão.
Song ngay cả những truyện đầu tay cũng đã cho thấy Alice có óc quan sát rất nhạy bén và khả năng tài tình nắm bắt những chi tiết tưởng như vô thưởng vô phạt nhưng khi lồng vào cốt truyện lại chuyên chở những ý nghĩa sâu sắc không thể ngờ. Và như nhiều nhà văn, bà như con ong hút mật, tất cả những gì nghe, thấy, đều có thể là đầu đề cho một cốt truyện nảy ra. Thái độ miêu tả trong đoạn trích dưới đây không phải là sự tọc mạch mà là bản năng của người có thiên hướng, và năng khiếu, diễn đạt cuộc sống:
Averill đi vòng quanh boong tàu và nghe thiên hạ nói chuyện. Cô nghĩ đến câu vẫn thường nghe, mỗi lần đi xa bằng tàu thuỷ là có dịp gác hết tất cả qua một bên, “hết tất cả” tức là cuộc sống hàng ngày, lối sống, cái nhân vật là mình khi ở nhà. Nhưng trong mọi câu chuyện cô nghe lóm được, thiên hạ lại làm ngược lại hẳn. Họ nói về họ, kể về công ăn việc làm, con cái, vườn tược, nhà cửa. Trao đổi bí quyết, cách làm bánh và cách ủ phân bón. Phải đối phó với con dâu thế nào và nên đầu tư vốn liếng ra sao. Rồi những chuyện ốm đau, phản bội, bất động sản.” 
(Goodness and Mercy, trong Friend of my Youth, 1990)
Những tập truyện sau này cũng cô đọng hơn, câu chữ vắn tắt, nhiều ẩn dụ, phần nào “khó đọc “ hơn vì đòi hỏi người đọc phải chăm chú và động não. Alice cũng nổi tiếng là đã cách tân thể loại truyện ngắn với một cấu trúc độc đáo. Câu chuyện không theo thứ tự thời gian mà ngắt quãng, hiện tại xen lẫn với quá khứ, người đọc không hiểu chuyện gì đã hay sẽ xảy ra, đoạn này liên hệ thế nào với đoạn sau, và chỉ đến trang cuối mới vỡ lẽ. Thì ra thế, cái mấu chốt là vậy, phải rồi, cần phải đọc lại từ đầu. Đọc từ tốn và bỗng đó đây hiện lên vài chi tiết ban nãy không để ý và bây giờ có một ý nghĩa tuyệt hay, mở ra những suy nghĩ, hình ảnh mới, chiếu lên bức tranh toàn diện một ánh sáng mới. Trong nhiều truyện, người đọc vừa thắc mắc vừa cảm thấy sờ sợ bất an, vì với Alice truyện khó mà kết thúc trong hân hoan hồ hởi, cái gì sẽ xảy ra đây, lạy bà, đừng làm con bé nó chết. Rồi lắm khi truyện chấm dứt, con bé không chết, nhưng người đọc cũng chưng hửng. Truyện của Alice thường không có hậu, không có happy end4 và cũng không có kết luận, chấm dứt bằng một câu lơ lửng, có khi chỉ một vài chữ lập lại, như tương lai bất định của nhân vật và sự ngơ ngác của người đọc.
Truyện không có kết luận nhưng cũng không thật sự có mở đầu. Trong những truyện sau này, Alice ít khi có mào đầu dẫn nhập, câu chuyện thường mở đầu với nhân vật đang làm gì đó, ngồi đợi xe lửa, lái xe trong đêm, nói gì với ai. Những diễn biến tuần tự (hay không) cho đến lúc chấm dứt bằng cái kết cục không phải là kết luận. Người đọc có cảm tưởng nhân vật đã sống trước và sau câu chuyện, mình chỉ chứng kiến một khoảnh khắc nhất định trong một mảnh đời tác giả kể cho nghe, như đi qua nhà ai, thấy bức rèm kéo ra, đứng nhìn sinh hoạt của họ một lúc đến khi cái rèm lại đóng vào. Và nếu hỏi Alice “Rồi sao nữa?” thì chắc sẽ được nghe trả lời “Thì là vậy”.
Diễn đạt cuộc sống tinh vi và chi phối người đọc đến như thế thì quả Alice Munro là bực thầy của truyện ngắn đương đại. Xin chịu thầy !

Và bây giờ ?


Năm 2012, Alice Munro tuyên bố tuyển tập Dear Life vừa phát hành sẽ là tác phẩm cuối cùng của bà. Bốn truyện cuối của quyển này được tách riêng dưới tựa “Finale” (Hồi kết) và lời bạt : “Bốn sáng tác cuối trong quyển này không hẳn là truyện. Chúng là một đơn vị riêng, có tính cách tự truyện về cảm xúc, dù có thay đổi đôi chút về sự việc. Tôi nghĩ rằng đây là những điều đầu tiên và cuối cùng – và thiết thân nhất – tôi muốn nói về đời mình”.
Trả lời phóng viên khi nhận giải Trillium Books Award cho Dear Life , bà nói : “Không phải là tôi không say mê viết văn nhưng ai cũng đến lúc có cái nhìn khác về cuộc đời mình. Và có lẽ, đến cái tuổi của tôi, mình không còn muốn cái cô độc của người viết văn”. Alice đã vài lần nhắc đến giải nghệ. Năm 2006, bà bảo “ Tôi không biết có còn đủ sức làm việc này nữa hay không”, và sau đó vẫn có sức viết nhiều, viết khoẻ. Nhưng bây giờ, ở tuổi 82, sau một lần phẫu thuật tim và chống chọi với bệnh ung thư bằng hoá trị, Alice không còn sung sức như trước.
Trả lời phóng viên, Peter Englund, thư ký thường trực Hàn lâm viện Thuỵ điển, nói :” Bà Munro đã làm một công việc phi thường, quá đủ để đoạt giải Nobel. Nếu bà muốn thôi viết thì là quyết định của bà.”
Trong niềm vui và xúc động khi mới nghe tin, được hỏi giải Nobel có thể làm bà thay đổi ý, Alice cười nói: “Tôi làm chuyện này từ bao năm rồi. Viết và ra sách, cứ đều đặn từ lúc 20 tuổi. Làm việc như thế cũng là rất lâu nên tôi thấy đã đến lúc nghỉ ngơi. Nhưng có thể cái này làm tôi suy nghĩ lại”. Song gần đây Alice thông báo sẽ không đến Stockholm nhận giải Nobel ngày 10 tháng 12 sắp tới vì lý do sức khỏe, và chưa chỉ định ai sẽ thay thế. Lạy Trời Alice sống thêm lâu, để những giòng cuối dưới đây của truyện cuối cùng trong phần “Hồi Kết” quyển Dear Life không phải là kết luận, theo đúng truyền thống Munro:
Tôi không về nhà khi bệnh của mẹ tôi vào giai đoạn cuối và lúc đám tang. Tôi có hai đứa con nhỏ và không có ai để gửi ở Toronto. Cũng phải xoay sở lắm mới chịu nổi chi phí chuyến đi và chồng tôi coi thường những xử sự hình thức. Nhưng cũng chẳng nên đổ lỗi cho anh. Tôi đồng tình với anh lúc ấy. Có những điều chúng ta vẫn bảo không thể tha thứ được, hoặc chúng ta sẽ không bao giờ tự tha thứ. Nhưng chúng ta vẫn cứ xí xoá đấy thôi – thường như cơm bữa”. 
( Dear Life, 2012).
Không đủ tài để bắt chước Alice Munro chấm dứt mà không chấm dứt, xin mượn lời của nhà văn Tân Tây Lan Fiona Kidman : “Tôi tạ ơn Munro, cuộc đời thân quí của bà, những truyện bà đã cho chúng ta và cái đẹp bình dị, chân phương của những câu văn. Bà không nhất thiết phải chấm dứt ở đây, nhưng nếu quả là vậy thì đây là hồi kết tuyệt đẹp.”

Đỗ Tuyết Khanh

25.10.2013

Fiona Kidman chỉ là một trong nhiều nhà văn nổi tiếng, của nhiều nước, ái mộ Alice Munro. Như một vài thí dụ cho thấy:

Bà là một trong những nhà văn – dù đã nổi tiếng đến mấy  người ta vẫn thường bảo phải được biết đến nhiều hơn nữa “. 
Margaret Atwood

Đọc Munro đưa tôi vào một trạng thái trầm ngâm, tôi suy nghĩ về cuộc đời của chính mình: những quyết định đã lấy, những gì đã làm và chưa làm, mình là người như thế nào, viễn tượng của cái chết. Bà là một trong vài nhà văn, có người còn sống, đa số đã chết, tôi nghĩ đến khi tôi nói hư cấu là đạo của tôi.” 
Jonathan Franzen

Munro là tác giả duy nhất viết sống động đến nỗi có lúc tôi lầm tưởng những sự kiện trong các truyện của bà là kỷ niệm của quá khứ chính mình … Cám ơn Alice Munro, cám ơn những truyện của bà, mỗi cái là một viên ngọc. Cám ơn những ngày và đêm tôi miệt mài đọc tác phẩm của bà. Cám ơn cái nhìn thẳng thắn, không bối rối, của bà về cuộc đời những cô gái và đàn bà, và cả cuộc đời những chàng trai và đàn ông. Cám ơn cái ác nghiệt cũng như cái nhân ái của bà, vì cái này cộng với cái kia là cốt lõi của sự thật”. 
Jane Smiley

Ngày xưa, Virginia Woolf đã tả George Eliot như một trong số ít tác giả “cho người lớn”. Điều này cũng có thể nói, và cũng đúng như thế, về Alice Munro
Michael Gorra
(giáo sư Anh ngữ và văn chương tại đại học Smith College,
tác giả nhiều tiểu sử đoạt giải)

Cả đời tôi chưa bao giờ vui như khi nghe công bố giải Nobel năm nay. Tôi nhớ khi tôi điểm sách của Alice Munro trong báo Toronto Globe and Mail và đánh giá bà ngang hàng với Tchekhov, người Canada ngạc nhiên nhưng hân hoan. Alice đã đóng góp nhiều hơn bất cứ tác giả nào tôi biết cho các khả năng và hình thái của thể truyện ngắn … Tôi là thành viên của câu lạc bộ những người hết sức ái mộ Munro. Chúng tôi đều biết bà là một trong những tác giả lớn nhất hiện nay, nhưng điều đó vẫn cứ như một bí mật. Bây giờ thì ai cũng sẽ biết.
A.S. Byatt

Trong truyện ngắn không có những tuyên bố vĩ đại về sự thật và xã hội. Những tác phẩm của Munro đặt ra câu hỏi lớn hơn về thế nào danh tiếng, chúng ta phá vỡ và làm lại ra sao khuôn thước của văn chương. Giải Nobel là câu trả lời hùng hồn cho câu hỏi này. Nếu các tác phẩm của bà có chứng minh gì, thì là cả cái khái niệm “quan trọng” cũng không có ý nghĩa bao nhiêu. Truyện của bà không chờ đợi chúng ta khen ngợi mà đọc chăm chú. Khi chúng ta đọc bà, chúng ta cảm thấy bớt cô đơn hơn trước.
Anne Enright



Tuyển tập truyện ngắn



  • Dance of the Happy Shades – 1968 (Governor General's Award for Fiction 1968)
  • Lives of Girls and Women – 1971 (Canadian Booksellers Award 1971)
  • Something I've Been Meaning to Tell You – 1974
  • Who Do You Think You Are? – 1978 (Governor General's Award for Fiction 1978; ấn bản Mỹ và Âu châu dưới tựa The Beggar Maid)
  • The Moons of Jupiter – 1982
  • The Progress of Love – 1986 (Governor General's Award for Fiction 1986)
  • Friend of My Youth – 1990 (Trillium Book Award)
  • Open Secrets – 1994 (WH Smith Literary Award 1995)
  • The Love of a Good Woman – 1998 (Giller Prize 1998 và National Book Critics Circle Award 1998)
  • Hateship, Friendship, Courtship, Loveship, Marriage - 2001 (tái bản dưới tựa "Away From Her")
  • Runaway – 2004 (Giller Prize 2004)
  • The View from Castle Rock – 2006
  • Too Much Happiness – 2009
  • Dear Life – 2012 (Trillium Books Award, 2012)

Đọc thêm


  • Lives of Mothers and Daughters: Growing Up With Alice Munro, 2002, hồi ký của Sheila Munro, viết sau khi Alice gợi ý con gái viết tiểu sử của mình. Trong đó Sheila kể tuổi thơ của mình, các kỷ niệm gia đình, gốc gác hai bên nội ngoại của Alice. Cô viết thành thật, với nể trọng và yêu thương về mẹ nhưng cũng nói lên những khó khăn, mặc cảm khi tập viết văn trong cái bóng của một thần tượng.
  • The McGregors, A Novel of an Ontario Pioneer Family, 1979, tác giả Robert Eric Laidlaw là cha của Alice. Ông Laidlaw là người tự học, đọc nhiều và ưa thích sử. Sau khi về hưu, ông viết về đời sống của tổ tiên, những người Scots đến lập nghiệp ở Canada. Cuốn sách được Alice và gia đình cho phát hành năm 1979 sau khi ông mất, và có thể đọc trên trang mạng Electric Scotland


(*)Diễn Đàn : tất cả các đoạn dịch từ tiếng Anh trong bài này đều do Đỗ Tuyết Khanh thực hiện.

1 Có người quan niệm Alice Munro là người thứ nhì vì trước đó đã có Saul Bellow là nhà văn Canada đầu tiên đoạt giải Nobel văn chương năm 1976. Song Saul Bellow là nhà văn Mỹ, sinh năm 1915 tại Lachine, tiểu bang Québec, nhưng cùng gia đình sang Chicago năm 1925 lúc 9 tuổi, nhập quốc tịch Mỹ năm 1941 và sống ở Mỹ cho đến khi mất năm 2005. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông gắn liền với thành phố Chicago. Cha mẹ ông là người Do Thái Nga, đầu tiên di cư sang Canada rồi định cư ở Mỹ. Nếu xem ông là người của Canada thì Israël hoặc Nga cũng có thể «nhận họ hàng» như vậy !
2 Alice in Wonderland, tác phẩm kinh điển của Lewis Carroll.
3 Wedgwood là công ti Anh nổi tiếng từ thế kỷ 18, sản xuất bát đĩa đồ gốm sang trọng cho giới thượng lưu.
4 Khi nhận giải Man Booker Prize năm 2009, Alice Munro kể lại lúc lên 7 tuổi, đọc truyện Nàng tiên cá của Hans Christian Andersen, bà đi đi lại lại mãi ngoài sân, cố tìm một hồi kết khác để cứu cô bé tiên cá đừng biến thành bọt biển. “Đi tìm một hồi kết có hậu. Không thể ngồi yên cho đến khi nghĩ ra. Rồi 70 năm sau, công việc của mình vẫn là diễn tả cuộc đời. Không còn nghĩ đến những hồi kết có hậu, nhưng vẫn làm công việc ấy. Cái mình đi tìm là ý nghĩa, âm vang, một nét đẹp lạ lùng trong cái ánh sáng lung linh trên mặt biển là cô bé tiên cá và người yêu bất tử của nàng”.
Các thao tác trên Tài liệu
Các số đặc biệt

Ảnh DT Võ Nguyên Giáp
Cập nhật: 15g20GMT, 20.10
Tin sinh hoạt
Triển lãm "Quan hệ Việt Nam - Pháp qua 4 thế kỷ" 10/09/2013 - 10/11/2013 — Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Conférences Philippe Papin 08/10/2013 - 28/11/2013 — Genève, Thụy Sĩ
Indochine. Des territoires et des hommes, 1856-1956 16/10/2013 - 26/01/2014 — L’hôtel des Invalides, Paris 7
** Nhạc và nghệ thuật sân khấu VN trình diễn tại Thụy Sĩ 07/11/2013 - 17/11/2013 — Genève - Thụy Sĩ
Triển lãm Dao Droste 09/11/2013 - 14/12/2013 — Đức, Heidelberg
Cineclub-Yda: Mille jours à Saigon 16/11/2013 14:00 - 18:00 — Paris 5ème
* Triển lãm "Indochine - France - Vietnam" tại vùng Paris 15/05/2014 - 14/07/2014 — Montreuil, vùng Paris
Các sự kiện sắp đến...
Kênh RSS
Diễn Đàn Forum Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :
feeds.feedburner.com/diendanforum
Ủng hộ chúng tôi - Support Us

Bài diễn văn bảo vệ môi trường của cô bé 12 tuổi khiến cả thế giới phải lặng câm

http://www.caonguyenxanhgroup.com/tin-tuc-su-kien/tin-tuc-moi-truong/201-bai-dien-van-bao-ve-moi-truong-cua-co-gai-12-tuoi-lam-ca-the-gioi-im-lang.html

http://www.youtube.com/watch?v=xPx5r35Aymc

<iframe width="560" height="315" src="//www.youtube.com/embed/xPx5r35Aymc" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

http://www.youtube.com/watch?v=vq94bUM6g0I Phụ đề tiếng Việt

Bài phát biểu của cô bé 12 tuổi Severn Suzuki

Ảnh minh họa
“Xin chào! Tôi là Severn Suzuki, đại diện cho ECO – tổ chức Trẻ em vì môi trường. Chúng tôi là nhóm trẻ em từ 12 đến 13 tuổi, đang cố gắng tạo nên vài thay đổi, và chúng tôi đã tự quyên tiền đi hơn 8000 km đến đây để nói với người lớn các vị rằng, các vị phải thay đổi.
Chúng tôi đến đây không có mục đích nào khác ngoài việc đấu tranh cho tương lai của chính mình. Đánh mất tương lai không giống như mất chiếc ghế trong bầu cử, hay trượt một vài điểm trên sàn chứng khoán. Tôi đến đây lên tiếng cho các thế hệ mai sau, lên tiếng cho những trẻ em đang chết đói trên khắp thế giới mà tiếng khóc cầu cứu không ai nghe thấy, lên tiếng cho muôn vàn động vật đang chết dần trên trái đất này vì chẳng còn nơi sinh sống. Giờ tôi sợ phải bước đi dưới ánh mặt trời vì những lỗ thủng trên tầng Ozon. Tôi sợ phải hít thở vì không biết không khí đang chứa những hóa chất nào.
Tôi vẫn thường đi câu cá cùng ba ở Vancouver, quê hương tôi, cho đến vài năm trước, khi tôi biết lũ cá đang đầy bệnh tật. Ngày ngày, chúng ta đều nghe những tin về việc các loài động thực vật đang dần tuyệt chủng, rồi biến mất mãi mãi. Tôi đã luôn mơ về những đàn thú hoang dã đông đúc, về những cánh rừng rậm và rừng mưa nhiệt đới đầy các loài chim và bướm. Nhưng giờ tôi lại tự hỏi, liệu con cái chúng tôi còn có cơ hội được thấy chúng nữa không? Hồi bằng tuổi tôi, các vị có phải lo lắng về những điều này không? Mọi chuyện đang diễn ra rành rành trước mắt, nhưng các vị lại hành động như thể chúng ta vẫn còn thừa thời gian và các biện pháp hữu hiệu.
Tôi chỉ là một đứa trẻ và không nghĩ ra được các giải pháp, nhưng tôi mong các vị hãy nhận ra rằng, chính các vị cũng thế. Các vị không biết cách vá lại các lỗ hổng trên tầng Ozon, không biết cách mang cá hồi về những dòng suối đã cạn khô, không biết cách làm sống lại các loài vật đã tuyệt chủng. Các vị cũng không thể biến những cánh rừng đã thành sa mạc giờ xanh tươi trở lại. Một khi đã không biết cách phục hồi, xin các vị đừng tàn phá nữa.
Các vị ở đây có thể là đại biểu chính phủ, doanh nhân, nhà tổ chức, nhà báo hay chính trị gia. Nhưng thực ra các vị là bố mẹ, là anh chị, cô chú… và tất cả các vị đều là những người con. Tôi chỉ là trẻ con nhưng tôi đã hiểu rằng, chúng ta đều là một phần của đại gia đình của 5 tỷ người. Thực tế là của hơn 30 triệu giống loài. Biên giới hay chính phủ cũng không thể thay đổi được. Tôi chỉ là trẻ con nhưng tôi đã hiểu rằng, chúng ta đều có phần trách nhiệm, và nên cùng hợp tác hành động hướng về mục tiêu chung. Giận dữ không làm tôi mù quáng. Dù sợ hãi, tôi cũng không ngại nói với cả thế giới những gì mình nghĩ. Ở đất nước tôi, chúng tôi thải ra quá nhiều rác. Chúng tôi mua rồi lại vứt đi. Cứ mua rồi lại vứt đi. Các nước giàu có khác cũng không bao giờ chia sẻ cho người nghèo ngay cả khi thừa thãi chúng ta vẫn không muốn chia sẻ, chúng ta sợ phải cho đi một chút của cải. Chúng tôi sống cuộc sống sung túc ở Canada, chẳng thiếu nước, thức ăn hay nhà ở. Chúng tôi có đồng hồ, xe đạp, máy tính, tivi… Ít nhất là cho đến hai ngày trước đây. Hai ngày trước, ngay tại Brazin này chúng tôi đã sốc khi sống cùng với những đứa trẻ đường phố. Một bạn đã nói với tôi thế này, “Tớ ước mình thật giàu có. Nếu được vậy, tớ sẽ cho tất cả những đứa trẻ đường phố thức ăn, quần áo, thuốc thang, nhà ở và cả tình yêu thương nữa”. Trong khi một đứa trẻ đường phố chẳng có gì trong tay lại sẵn sàng chia sẻ với người khác, tại sao chúng ta, những người có tất cả lại tham lam đến thế? Tôi không thể không nghĩ rằng “những đứa trẻ này chỉ bằng tuổi tôi thôi”. Chỉ sinh ra ở những nơi khác nhau thôi mà cuộc sống của trẻ em lại khác biệt nhiều đến thế?
Tôi đã có thể là một trong những đứa trẻ sống ở Favellas, Rio. Tôi đã có thể là một trong những đứa trẻ sống ở Somalia, một nạn nhân của chiến tranh Trung Đông hay một người ăn xin ở Ấn Độ. Tôi chỉ là trẻ con nhưng tôi đã hiểu rằng, nếu số tiền dùng để cung phụng chiến tranh kia được dùng cho việc tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề môi trường, chấm dứt đói nghèo, đi tới các hiệp ước thì trái đất này sẽ tuyệt vời tới nhường nào.
Ở trường học, ngay từ lớp mẫu giáo, người lớn vẫn dạy chúng tôi cách ứng xử đúng mực. Các vị dạy chúng tôi không được đánh nhau. Phải cố gắng tìm ra các giải pháp. Tôn trọng mọi người. Sửa chữa lỗi lầm mình đã gây ra. Không làm hại các sinh vật khác. Phải biết chia sẻ chứ đừng tham lam… Vậy tại sao các vị lại làm những việc chính các vị dạy chúng tôi không nên làm?
Xin đừng quên lý do các vị dự hội nghị này. Các vị làm việc này vì ai? Lớp trẻ chúng tôi là con cháu của các vị. Chính các vị là người quyết định con cháu mình sẽ lớn lên trong một thế giới như thế nào. Lẽ ra bố mẹ sẽ an ủi con cái rằng, “mọi chuyện sẽ ổn thôi”, “đây không phải là ngày tận thế đâu”, và “bố mẹ sẽ làm những gì tốt nhất có thể”. Nhưng tôi không nghĩ giờ đây các vị còn có thể nói vậy. Chúng tôi có còn nằm trong danh sách được ưu tiên của các vị nữa không?
Bố tôi thường nói, “Hành động sẽ tạo nên con người con, chứ không phải lời nói”. Vâng, nhưng những gì các vị làm khiến tôi khóc hàng đêm. Các vị luôn nói rằng các vị yêu chúng tôi, nhưng tôi xin thách thức các vị hãy hành động đúng như những gì đã nói.
Xin cám ơn!”