Thứ Năm, 30 tháng 1, 2020

1592 会話 3 - Âm Hán Nhật - Âm Hán Việt

乗出準備に向けての確認事項 Norida junbi ni mukete no kakunin jikō: Things to check for preparation for boarding: Danh mục kiểm xem những thứ cần đưa lên tàu
備: Norida junbi: Preparation for boarding: thừa xuất chuẩn bị: chuẩn bị đưa lên tàu
向ける: Turn/ Point
向けて: Towards
向け: For
確認事kakunin ji: checklist: xác nhận sự hạng: danh mục để kiểm xem

菅原汽船㈱の鐵艸と申します。Sugawara kisen (kabu) no Tetsukusa tomōshimasu. I'm Tetsukusa of Sugawara Kisen Kaisha. Tôi là Tetsukusa của công ty VTB Sugahara

ですが、Sassokudesuga, Immediately, Tảo tốc,: ngay lập tức,

掲題新造船の準備に向け、Keidai shin zōsen no junbi ni muke, In preparation for the new shipbuilding, Như đầu đề, cho việc chuẩn bị cho tàu đóng mới
題: Keidai: Khế đề: Title: Đầu đề
掲題の件: Keidai no ken: Submission: Khế đề の kiện: Trình (lên)
掲題の件について: Keidai no ken ni tsuite: About the subject: Về cái tiêu đề
船: shin sen: tân tạo thuyền: New building ship: tàu đóng mới
: junbi: preparation: chuẩn bị
準備する: to prepare
準備: Junbi-chū: in preparation: chuẩn bị trung: đang chuẩn bị
準備はできています: Junbi wa dekite imasu: ready: chuẩn bị xong/ sẵn sàng
準備はできていますか: Junbi wa dekite imasuka: are you ready: chuẩn bị xong chưa/ sẵn sàng chưa

添付の確認事項について教えてください。Tenpu no kakunin jikō ni tsuite oshietekudasai. Please tell me about the attached items. Xin hãy chỉ cho tôi về những danh mục để kiểm xem như trong đính kèm.
付: tempu: thiêm phụ: attachment: đính kèm
認事項: kakunin jikō: checklist: xác nhận sự hạng: danh mục để kiểm xem

お忙しい中、Oisogashī-chū, busy right now, (bạn) đang bận nhỉ,

お手数おかけしますが宜しくお願い申し上げます。Otesū okake shimasuga yoroshiku onegai mōshiagemasu. Sorry to trouble you, but thank you. Xin lỗi đã làm phiền, trân trọng cảm ơn anh.

平素は大変お世話になっております。Heiso wa taihen osewa ni natte orimasu. Thank you very much. Cảm ơn ông như mọi khi đã luôn vất vả.

下記拝受しております。Kaki haiju shite orimasu. We have received the following. Tôi đã nhận được (mail) dưới đây
記: kaki: hạ ký: ở dưới: following
下記の: below: dưới đây
下記の通り: Kakinotōri: as below: như dưới đây
下記参: Kaki sanshō: See below: hạ ký tham chiếu: xem dưới đây
受する: haiju suru: receive/ accept: bái thụ: nhận/ chấp nhận

内確認の上、Shanai kakunin no ue, After internal confirmation, nội xác nhận の thượng, Sau khi xem xét trong công ty,

絡させて頂きますので、Go renraku sa sete itadakimasunode, I will contact you, Tôi sẽ liên lạc với ông,

恐れ入りますが、Osoreirimasuga, excuse me, Tôi xin lỗi,

お時を頂きたく宜しくお願い致します。O jikan o itadakitaku yoroshikuonegaiitashimasu. Thank you for your time. Cảm ơn ông đã giành thời gian cho tôi.

Thứ Ba, 28 tháng 1, 2020

1592 会話 2 - Âm Hán Nhật - Âm Hán Việt

予備品リストについて Yobi-hin risuto ni tsuite: Spare parts list: Về danh mục đồ dự phòng thay thế.
品: Yobi-hin: Spares/ Reserve supply: dư bị phẩm: đồ dự phòng thay thế

本船の予備品リストですが Honsen no yobi-hin risuto desuga: This is a list of spare parts for this ship: Đây là danh mục đồ dự phòng thay thế cho tàu này.
Honsen: bổn thuyền: this ship: tàu này

S1577番船と同じ物でしょうか。S1577-ban-sen to onaji mono deshou ka. Is it the same as S1577? Có giống với (danh mục) của tàu số S1577 không?
同じ: onaji: giống như (nhau)

変更箇所がありましたら Henkō kasho ga arimashitara: If there are any changes: Nếu có điểm (cơ sở) nào thay đổi 
Hen: biến cánh: change/ modification: thay đổi
所: kasho: sở: location/ point/ place: điểm (nào)

変更部のみご連絡ください。Henkō-bu nomi go renraku kudasai. Please (tell me) the contact of only the change department. Hãy (nói cho tôi) liên lạc của chỉ mỗi cái bộ phận thay đổi đó.
更部: Henkō-bu: biến cánh bộ: Change department: bộ phận bị thay đổi
絡: renraku: liên lạc: contacting


確認の上、支給予備品を準備させて頂きます。Kakunin no ue, shikyū yobi-hin o junbi sa sete itadakimasu. After confirmation, we will prepare spare parts to be provided. Sau khi xác nhân, chúng tôi sẽ chuẩn bị cung cấp đồ "spare parts" (dư bị phẩm)
認の上、Kakunin no ue, : Xác nhận の thượng: After confirmation/ After checking: Sau khi xác nhận
予備品: shikyū yobi-hin: chi cấp dư bị phẩm: đồ "spare parts" được cung cấp: supplied spare parts
備: junbi: preparation: chuẩn bị

下段メールにつきまして、Gedan mēru ni tsukimashite,: About lower email,: Về cái mail ở dưới,
Gedan: Lower row: Hạ đoạn: Đoạn dưới

返答が遅くなり大変申し訳ございません。Hentō ga osoku nari taihen mōshiwakegozaimasen. Sorry for the late reply. Tôi xin lỗi vì đã hồi đáp (thư) muộn.
Hen: Phản đáp: Reply: Trả lời
遅くなり: osoku nari: Be late: Chậm chễ/ muộn

各担当者に確認したところ、Kaku tantōsha ni kakunin shita tokoro, After checking with each person in charge, Sau khi xác minh với các người chịu trách nhiệm,
当者: Kaku tantōsha: Each person in charge: các đảm đương giả: những người chịu trách nhiệm
認: Kakunin: Xác nhận: confirmation

電気部のみ変更がありました。Denki-bu nomi henkō ga arimashita. Only the electrical part has changed. Chỉ có bộ phận điện là có thay đổi.
気部: Denki-bu: Điện khí bộ: Electrical department: Bộ phận điện: 
Hen: biến cánh: change/ modification: thay đổi

変更理由としては分電盤のメーカーが変わっているためです。Henkō riyū to shite wa bunden-ban no mēkā ga kawatte iru tamedesu. The reason for the change is that the manufacturer of the distribution board has changed. Lý do của sự thay đổi đó là do nhà sản xuất bảng chia điện đã thay đổi.
変更理: Henkō ri: biến cánh lý doThe reason for the change: lý do của sự thay đổi
分電bunden-ban: phân điện bàndistribution board/ Switchboard: Bảng phân phối điện
変わる kawaru: change
変わります kawarimasu: to change
変わっている kawatte iru: It has changed 
変わってない kawattenai: Not changed

変更に関わる図面を添付いたします。Henkō ni kakawaru zumen o tenpu itashimasu. Attach drawings related to the change. Đính kèm với mail này là bản vẽ liên quan đến sự thay đổi.
Hen: biến cánh: change/ modification: thay đổi
関わる kakawaru Get involved
関わります kakawarimasu Get involved
zumen: đồ miếnDrawing/ Diagram: Bản vẽ
付: tenpu: thiêm phụ: attach: đính kèm

変更点を赤枠でかこっておりますのでお手数ですが、Henkōten o aka-waku de kakotte orimasunode otesūdesuga, Sorry for your inconvenience, since the changes are outlined in red, Điểm thay đổi được đóng khung đỏ, thật phiền anh quá,
変更Henkōten: biến cánh điểm: Change point: Chỗ thay đổi
赤枠: aka-waku: red frame: khung đỏ
お手ですが: otedesuga: Sorry for your inconvenience/ trouble: お thủ số ですが: (Một kiểu nói kính ngữ) thật là đã phiền anh

ご検収のほどよろしくお願いいたします。Go kenshū no hodo yoroshikuonegaītashimasu. Thank you for your acceptance. Cảm ơn sự đồng ý của anh.
ご検のほど: Go kenshū no hodo: About the acceptance: ご kiểm thâu のほど: Về việc chấp nhận

本件、変更部のご連絡をありがとうございました。Honken, henkō-bu no go renraku o arigatōgozaimashita. Thank you for contacting the change department. Trường hợp này, cảm ơn anh đã gửi liên lạc cho tôi.
HonkenIn this case: bản kiện: Trường hợp này
Henkō-bu: biến cánh bộ: Change department: bộ phận thay đổi
renrakuliên lạc: contacting

引き続き宜しくお願い致します。Hikitsudzuki yoroshikuonegaiitashimasu. Please continue to give us your support. Đề nghị anh tiếp tục (hợp tác) với chúng tôi.

Thứ Hai, 27 tháng 1, 2020

Nguyễn Gia Kiểng - Mặt thật của ai?

"MẶT THẬT CỦA AI ? " (Nguyễn Gia Kiểng )
Ông Bùi Tín sinh ra trong một gia đình Nho Giáo truyền thống. Thân sinh ông là Bùi Bằng Đoàn, làm thượng thư (bộ trưởng) trong triều đình Huế. Cách mạng tháng 8 bùng ra lúc cậu Bùi Đường ấm, sau này đổi tên là Bùi Tín, mới vừa 19 tuổi. Ông Bùi Bằng Đoàn, nổi tiếng thanh liêm và học giỏi, trở thành chủ tịch quốc hội đầu tiên của chế độ Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa, một chức vụ hữu danh vô thực. Ông Bùi Bằng Đoàn chỉ ở đó để đem lại cho chính phủ Hồ Chí Minh một bộ mặt tri thức và đoàn kết dân tộc. Ông Bùi Bằng Đoàn tham gia chính quyền Việt Minh vì sợ hơn là vì nhiệt tình. Ông Phạm Quỳnh, thủ tướng Nam Triều, đã bị giết, như nhiều quan chức triều đình Huế khác.
Nhưng nếu ông Bùi Bằng Đoàn chỉ theo Việt Minh vì sợ thì cậu ấm Bùi Tín lại theo vì lý tưởng. Cậu hăng say theo cách mạng mùa thu, đi bộ đội, tham dự nhiều trận đánh, từng bị thương và sau cùng được sử dụng ngay trong sở trưởng của cậu, nghề viết báo. Bùi Tín trở thành đại tá phó tổng biên tập tờ Nhân Dân, cơ quan trung ương của đảng cộng sản Việt nam. Chức vụ này rất lớn, bởi vì tuyên truyền là công tác trọng yếu hàng đầu của chính quyền cộng sản. Tờ Nhân Dân quan trọng hơn nhiều so với một bộ, nó được tổ chức như một chính phủ trong một chính phủ, với tất cả các ban tương ứng với các bộ: ban quốc phòng, ban quốc tế, ban nông nghiệp, ban công nghiệp, ban văn hóa, xã hội, v. v… Vị thế của Bùi Tín cao hơn một thứ trưởng, vai trò của ông đặc biệt quan trọng. Bùi Tín là thành viên của phái đoàn cộng sản trong hội nghị bốn bên tại Tân Sơn Nhất. Do một sự tình cờ Bùi Tín cũng là người đại diện cho phe cộng sản nhận sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh sáng ngày 30-4- 1975.
Nhưng năm 1990, trong một chuyến công du sang Pháp Bùi Tín lấy quyết định xin tị nạn chính trị. Từ đó Bùi Tín đã viết rất nhiều bài báo, trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, tố giác chế độ cộng sản và vận động cho dân chủ đa nguyên. Bùi Tín cũng viết một số sách thuật lại những gì mà ông đã thấy trong một cương vị đặc biệt thuận lợi để quan sát chế độ cộng sản từ bên trong.
Trong cuốn Mặt Thật, cuốn sách gây sôi nổi nhất của ông, Bùi Tín mô tả chiến dịch cải cách ruộng đất được chính phủ Hồ Chí Minh phát động năm 1955, trong đó hàng ngàn, hàng vạn người bị giết oan.
Bùi Tín kể:
Các cố vấn Trung Quốc ngồi ưỡn bụng ra, để chân lên bàn uống rượu Mao Dài, vừa “nhổ nước bọt ồn ào”, vừa dạy dỗ các học trò dễ bảo Trường Chinh (tổng bí thư đảng cộng sản), Hoàng Quốc Việt (ủy viên bộ chính trị, sau đó là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc), v. v. về cải cách điền địa. Họ ra lệnh giết bà Nguyễn Thị Năm, người đã từng ủng hộ Việt Minh từ năm 1937, đã từng che chở và nuôi dưỡng chính các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và có con đang làm chính ủy trung đoàn. Ông Hồ Chí Minh được tin la lên là không thể giết một phụ nữ, một ân nhân cách mạng, một người mẹ của một anh hùng quân đội. Nhưng các cố vấn Trung Quốc bảo là đã quá trễ, mọi việc đã chuẩn bị xong. Ông Hồ Chí Minh im mồm, và bà Năm bị bắn.
Phong cách của ông Hồ Chí Minh là thế. Còn các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt thì không biết phải gọi là hạng người gì.
Ông Phạm Văn Đồng thấy các bộ trưởng, thứ trưởng của mình bị vu oan, bị thanh trừng, bị bỏ tù, không dám lên tiếng bênh vực Sau khi nghỉ hưu dù đã ngoài tám mươi tuổi, ông còn cố bám lấy hư vị “cố vấn” để giữ lợi lộc.
Ông Lê Đức Thọ là một con người nham hiểm, dùng đủ mọi thủ đoạn nhơ bẩn và độc ác để triệt hạ các đồng chí cũ của ông.
Ông Lê Duẩn là một thứ ếch ngồi đáy giếng, vừa thiển cận, vừa lỗ mãng, vừa tự cao tự đại.
Các ông tướng Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, v.v… đều thiếu văn hóa, nông cạn và cực đoan Riêng ông Nguyễn Chí Thanh thì còn hèn nhát, lúc bị mật thám Pháp bắt đã khai nhiều bí mật gây thiệt hại nặng cho đảng rồi đổ tội cho người đồng chí cùng bị bắt với mình là Đặng Xuân Thiều làm ông này bị trù dập hơn ba mươi năm cho đến lúc về hưu.
Còn ông Đỗ Mười? Ông là thợ sửa khóa, nhận thức chính trị sơ sài và lại mắc bệnh tâm thần, ban đêm leo lên cây bàng ngồi ngất ngư.
Ngòi bút Bùi Tín mô tả các lãnh tụ cộng sản một cách tàn nhẫn. Tàn nhẫn vì Bùi Tín chỉ kể lại mà không phê phán. Tay nghề bốn mươi năm cầm bút của Bùi Tín là ở chỗ đó. Mặt Thật là một cuốn sách hay, một tài liệu lịch sử thành công về diễn đạt và có giá trị văn học. Một cuốn sách cần đọc. Tôn Thất Thiện trong một lá thư cho tôi nói rằng đọc xong ông phải kinh phục (kinh không có dấu sắc) tác giả.
Nhưng nếu như vậy thì phải đặt ra một số câu hỏi.
Tại sao những con người như vậy lại có thể khuất phục được cả một dân tộc? Tại sao hàng ngàn, hàng vạn trí thức lỗi lạc đã phục tùng họ một cách ngoan ngoãn, và còn hết lời tâng bốc họ, làm biết bao nhiêu người khác tưởng họ là những thần tượng và chạy theo họ? Chính Bùi Tín, tác giả cuốn Mặt Thật, trong bao nhiêu năm làm “đại tá – nhà văn – nhà báo” cũng đã tô son điểm phấn một cách đắc lực cho cái chế độ mà ngày nay ông muốn lột trần bộ mặt thật. Không lẽ trong cả mấy chục năm trường những trí thức xuất sắc như thế lại không nhận ra thực chất tồi tệ của những người lãnh đạo cộng sản? Tại sao họ đã tự lừa dối lương tâm mình và đóng góp lường gạt cả một dân tộc?
Người trí thức cộng sản không thể trả lời được những câu hỏi gay gắt đó, nhưng họ có thể hỏi ngược lại những người chất vấn họ những câu hỏi không kém nhức nhối. Bởi vì đa số – dù không phải là tất cả – những trí thức không cộng sản cũng đã phục tùng những công cụ chẳng ra gì của ngoại bang. Những trí thức quốc gia cũng đã đem hết tâm huyết hô hào biết bao nhiêu thanh niên bỏ mình cho một lý tưởng dân chủ không hề làm bận tâm ông Diệm, ông Nhu, hay cho một “chính nghĩa quốc gia” không hề có trong đầu óc các ông Big Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều trí thức khác đã tự đặt mình ra ngoài lề lịch sử, tự cắt bỏ khỏi số phận đất nước, đào nhiệm và cầu an.
Cuối cùng đất nước như ngày hôm nay, sau tất cả những gì đã xảy ra. Vai trò của người trí thức Việt nam – cộng sản và không cộng sản – thật là bẽ bàng. Công bình mà nói cũng có những trí thức Việt nam không làm tay sai cho một bè lũ hay một chế độ gian trá nào mà vẫn phấn đấu, vẫn cố hiện diện trong cuộc vận hành của lịch sử. Nhưng họ đã thất bại. Trí thức Việt nam đã thất bại hoàn toàn.
Đỗ lỗi cho nhau, luận tội nhau chỉ là để xem ai tồi hơn ai, có ích lợi gì? Hơn nữa, lên án và kết tội nhau còn sai vì nói chung trí thức Việt nam lương thiện, yêu nước và cũng đã hy sinh nhiều. Có một cái gì đó vượt khỏi lô-gích bình thường mà ta cần nhận diện để đừng buộc tội lẫn nhau một cách bất công và vô ích. Có lẽ chúng ta phải tìm giải thích cho sự phá sản này trong lý lịch và trong gia phả của người trí thức Việt nam chúng ta.
Trí thức Việt nam ngày nay là hậu thân của giai cấp sĩ phu ngày trước. Mối liên hệ phụ-tử vẫn còn rất thắm thiết. Kẻ sĩ vẫn còn là mẫu mực của rất nhiều trí thức Việt nam. Ngày nay người ta vẫn còn tự hào là có tư cách của kẻ sĩ, người ta vẫn còn khen nhau là có thái độ của kẻ sĩ.
Nhưng kẻ sĩ là gì nếu không phải là một mẫu người tồi hèn, vong thân?
Chúng ta vẫn còn là kẻ sĩ, và vì thế vẫn còn mang cái tật nguyền này của kẻ sĩ. Vấn đề là như thế. Người ta có thể hấp thụ mau chóng những kiến thức và những kỹ thuật mới, nhưng từ bỏ một tập quán và một tâm tính đã được nhào nặn qua nhiều thế hệ, đã ăn rễ vào con người và đã biến thành một bản năng, là một điều khó gấp nhiều lần. Hãy thử lấy một thí dụ về trọng lượng của tập quán. Tại sao người Nhật lại lái xe bên tay trái? Họ có bị người Anh đô hộ bao giờ đâu? Lý do chỉ giản dị là các hiệp sĩ Nhật quen đi bên trái các hành lang để có thể nhanh chóng rút gươm bằng tay mặt!
Nho Giáo không tạo ra kẻ sĩ để làm một con người tự do, dễ chịu trách nhiệm trước xã hội và để lãnh đạo xã hội mà chỉ tạo ra kẻ sĩ để làm dụng cụ cho một guồng máy và làm thủ hạ cho các vua chúa. Trong suốt dòng lịch sử, kẻ sĩ Trung Hoa và Việt nam đều chỉ biết sống với số phận tôi tớ. Sĩ là một nghề, nghề đi học và nghề làm quan. Trước sau là nghề quì. Quì trước mặt thày để học với ước vọng “thành đạt” để được quì trước các vua chúa. Nếu quì là thái độ của kẻ sĩ thì chờ đợi là triết lý của kẻ sĩ. Thời gian trưởng thành của kẻ si được gọi là thời “chưa gặp” (lúc vị ngộ hối tàng nói bong tất), gặp một chủ để thờ. Kẻ sĩ không khởi xướng ra một sự nghiệp nào mà chỉ chờ đợi để được làm bày tôi cho một minh chủ nên hậu quả tất nhiên là kẻ sĩ phải chấp nhận luật chơi sẵn có của kẻ đã làm nên sự nghiệp, đem trí tuệ của mình minh họa cho ý của chủ. Và luật chơi của chủ rất khắc nghiệt. Các vua chúa muốn dùng họ thì dùng, muốn cách chức đuổi đi, muốn căng nọc ra đánh, muốn thiến họ như thiến heo thiến gà, muốn giết họ thì giết, muốn giết cả nhà họ cũng được, kẻ sĩ cam chịu hết. Thân phận kẻ sĩ chẳng có gì vinh, đó chỉ là thân phận của một tôi tớ, một dụng cụ thuộc quyền sử dụng và vứt bỏ tuỳ tiện của các vua chúa. Cái bản chất dụng cụ và tôi tớ ấy ngay cả những kẻ sĩ lỗi lạc nhất cũng không trút bỏ được. Điều kinh ngạc là trong hàng chục thế kỷ kẻ sĩ đã có thể chấp nhận một khuôn mẫu đầy đọa và hạ nhục mình như thế, để rồi cuối cùng sự phục tùng vô điều kiện trở thành một bản năng và một giá trị.
Khổng Minh tài ba như thế mà gặp thời nhiễu nhương cũng chỉ biết ngồi trong lều cỏ để chờ một minh chúa.
Nguyễn Trãi là một kẻ sĩ siêu việt cả về văn lẫn võ, lại có cả chí khí hơn người, Lê Lợi là một phú nông cục mịch. Tại sao lại “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”? Tấn thảm kịch còn lớn hơn ở chỗ Lê Lợi không có đủ trí tuệ để viết ra câu đó, chính Nguyễn Trãi đã sáng tác ra câu đó.
Cao Bá Quát là một kẻ sĩ ưu việt và ngang ngược, dám nổi loạn chống lại nhà Nguyễn. Nhưng Cao Bá Quát không lãnh dạo cuộc nổi dậy mà chỉ phò Lê Duy Cự. Giả thử cuộc nổi dậy thành công thì cũng chỉ để đưa đến kết quả “Lê Duy Cự vi quân, Cao Bá Quát vi thần”. Ngay cả khi kẻ sĩ chống lại một ông chủ thì cũng chỉ để hy vọng được phò một ông chủ khác, họ không sinh ra để làm chủ.
Cao Bá Quát thất bại, bị chặt đầu và tru di tam tộc. Nguyễn Trãi thành công, để cũng chỉ được cái vinh dự quì gối trước Lê Lợi, rồi cũng bị chặt đầu và tru di tam tộc.
Trong lịch sử Trung Hoa, những kẻ làm nên nghiệp đế vương, dù là Lưu Bang, Hạng Võ, Lý Thế Dân, Triệu Khuông Dận, Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyễn Chương đều không phải là kẻ sĩ. Họ là hào phú, là các tay anh chị, hay vốn thuộc dòng dõi bá vương. (Tào Tháo là một ngoại lệ, nhưng Tào Tháo bị kẻ sĩ chối bỏ và lên án là gian thần).
Trong lịch sử Việt nam, những kẻ giành được ngôi vua, dù là Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Lợi, Mạc Đăng Dung, Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn ánh đều là quí tộc, võ tướng hay các tay anh chị chứ không phải là kẻ sĩ. (Hồ Quí Ly là một ngoại lệ, nhưng Hồ Quí Ly hành động như vậy vì tự coi mình là người Hoa hơn là người Việt nên coi thường nề nếp Việt nam; chiếm được ngôi vua, Hồ Quí Ly đã lập tức đổi tên nước là Đại Ngu theo tên cố quốc của mình).
Một thực tế thê thảm như vậy chứng tỏ khuôn mẫu Khổng Nho đã tha hóa kẻ sĩ tới mức nào. Một thực tế bi thảm khác là tất cả những tiến bộ về tư tưởng của Trung Hoa đã chỉ có trước khi Khổng Giáo được đưa lên hàng một quốc giáo. Hơn hai ngàn năm ngự trị của khuôn mẫu Khổng Giáo đã làm tê liệt hẳn óc sáng tạo. Các hậu quả vẫn còn thấy được: nhiều nước châu á, nhờ không chịu ảnh hưởng Khổng Giáo một cách quá nặng nề, ngày nay đã rất phát triển, những người châu Á vẫn hầu như vắng mặt trong các giải Nobel, họ vẫn thua xa người phương Tây về óc sáng tạo trong mọi địa hạt.
Trong xã hội Khổng Nho, kẻ sĩ không hội nhập vào xã hội. Lúc hàn vi kẻ sĩ sống qua ngày, đợi cơ hội làm quan. Lúc được làm quan kẻ sĩ trở thành nhưng tay sai không điều kiện cho các vua chúa để thống trị quần chúng. Kẻ sĩ được vua chúa xếp hàng đầu trên nông, công, thương, nhưng thực ra kẻ sĩ bị loại khỏi xã hội. Một điều rất đáng chú ý là trong xã hội ta ngày xưa kẻ sĩ hoàn toàn vắng mặt trong các chức quyền địa phương xuất phát từ dân gian như chánh tổng và lý trưởng, những chức vụ đã có thể là những bàn đạp để tiến lên quyền lực quốc gia. Kẻ sĩ không có hậu thuẫn quần chúng vì sống ngoài lề xã hội. Kẻ sĩ cũng không có tài sản vì không biết và cũng không muốn kinh doanh buôn bán, không những thế kẻ sĩ còn được giáo dục và nhồi nặn để khinh thường và thù ghét hoạt động kinh doanh, buôn bán. Phi thương bất phú, kẻ sĩ không có độc lập về kinh tế cho nên cũng không có thể có tự chủ về chính trị. Tại sao lại “Nguyễn Trãi vi thần”? Bởi vì không muốn “vi thần” cũng không được. Nguyễn Trãi không có thủ túc và cũng không có tài sản để phất cờ khởi nghĩa. Kẻ sĩ trong khuôn mẫu Khổng Nho là mẫu người lệ thuộc vào vua chúa và cuối cùng chịu ơn vua chúa. Quyền lực quốc gia chỉ truyền tay giữa một bên là các vua chúa và một bên là đám anh hùng áo vải, không người không chịu ơn vua chúa và do đó dám thách thức vua chúa.
Tình trạng vong thân kéo dài từ đời này sang đời khác đã khiến kẻ sĩ mất hẳn lòng tự tin. Tuy bề ngoài có khi kẻ sĩ huênh hoang “có giang sơn thì sĩ đã có tên, từ Chu Hán vốn sĩ này là quí” (Nguyễn Công Trứ), nhưng trong thâm tâm kẻ sĩ không tin ở mình và cũng không tin ở cả giai cấp sĩ của mình; do đó kẻ sĩ không những không dám có ý định dựng nghiệp mà còn không sẵn sàng giúp một kẻ sĩ khác dựng nghiệp. Kẻ sĩ phải làm bầy tôi, nếu từ chối số phận tôi tớ và dám mơ ước làm vua, kẻ sĩ đã vi phạm đạo lý của giai cấp mình và bị lên án là gian thần, thoán nghịch, phản tặc. Nguyễn Hữu Chỉnh coi thường vua Lê chúa Trịnh bất lực và muốn nắm quyền thì đã sao, mà người ta lên án ông là gian hùng và hả hê khi ông bị bốn ngựa xé xác? Có sử gia nào đủ khách quan để nhận định rằng chính hành động vào Nam liên kết với Tây Sơn của Chỉnh đã mở đầu cho tiến trình thống nhất đất nước?
Luân lý Nho Giáo bắt người có học không được làm chủ mà chỉ được làm tôi cho một ông chủ nào đó, và tệ hơn nữa phải làm tôi suốt đời cho một chủ bởi vì “tôi trung không thờ hai chúa”. Kẻ sĩ trong quan niệm Nho Giáo là một kẻ nô lệ chứ không phải là một con người tự do. Do bản năng và địa vị xã hội, kẻ sĩ không dám và không thể, và do đó khiếp phục những kẻ dám và có thể. Bài Bình Ngô Đại Cáo hùng tráng vì Nguyễn Trãi viết cho Lê Lợi chứ không viết cho mình, vì lúc viết Nguyễn Trải đã tự đặt mình vào địa vị của Lê Lợi, tưởng tượng mình là vua (“Trẫm đây, núi Lam Sơn dấy nghĩa…, một mảnh nhung y dựng nên nghiệp lớn…”).
Tôi nói nhiều về kẻ sĩ như vậy bởi vì cái tâm lý kẻ sĩ vẫn còn hiện diện rất mạnh trong tiềm thức của chúng ta.
Di sản nặng nề nhất là triết lý ở ẩn, tránh hiểm nguy và chờ thời. Tâm lý này ngự trị trong đầu óc hầu hết mọi trí thức Việt nam. Nó cũng ngự trị ngay cả trong đầu óc những người có ý chí nhất dám hoạt động chính trị. ở các vị này nó thể hiện qua lối làm chính trị nhân sĩ. Nhưng người trí thức tự cho là mình có một giá trị nào đó – có khi chỉ là do một sự tự đánh giá mình rất chủ quan – thường không chịu tham gia tạo dựng ra một lực lượng chính trị nào và cũng không lên tiếng bênh vực một lập trường nào, ngay cả khi họ thấy là đúng. Họ chỉ muốn là những nhân sĩ đứng ngoài các tổ chức và các cuộc tranh cãi gay go để vừa khỏi tốn công sức vừa khỏi bị cháy. Họ tin rằng một khi họ đã là nhân sĩ thì dù ai nắm được chính quyền cũng vẫn cần họ. Đó là một tính toán mà họ cho là sáng suốt và quả thực là một chọn lựa sáng suốt khi người ta chỉ có tham vọng làm công cụ. Chính cái thái độ nhân sĩ này, hậu thân của tâm lý kẻ sĩ ngày xưa đã khiến các tổ chức đối lập dân chủ hiện nay không được hưởng ứng và không mạnh lên được trong một giai đoạn đầy thử thách như giai đoạn chúng ta đang sống.
Một di sản khác là sự thiếu quyết tâm. Trí thức Việt nam có nhiều người không thiếu ý kiến nhưng cái quán tính “không dám và không thể” thừa hưởng từ tâm lý kẻ sĩ do hàng ngàn năm uốn nắn này vẫn còn quá manh khiến họ do dự bất quyết, sẵn sàng thỏa hiệp và nhượng bộ trước những giải pháp thô bạo trái ngược với nguyện ước của mình, rồi sau cùng đánh mất chính mình. Nhiều trí thức còn thực sự ngưỡng mộ những tay anh chị bởi vì họ ngưỡng mộ cái liều, cái bạo mà họ không có được. Họ bị hớp hồn trước những người có bản năng mạnh và dám làm, bởi vì đó là một phần của chính họ mà họ đã mất đi và vẫn tiếc.
Mẫu người kẻ sĩ không phải chỉ còn tồn tại mà còn đang có cơ được hồi sinh. Các chế độ độc tài tại châu Á, trong đó có Trung Quốc và Việt nam, đang dụng tâm thiết lập một thứ Khổng Giáo Mới làm chỗ dựa cho các chế độ độc tài ngày nay, như Khổng Giáo Cũ đã từng làm nền tảng cho các chế độ quân chủ chuyên chế ngày xưa. Một âm mưu tha hóa trí thức mới đang xuất hiện. Và lần này kẻ sĩ có một cái tên gọi mới: chuyên viên. Ngay trong lúc này đang có nhiều trí thức Việt nam chủ trương hãy thôi làm chính trị, tạm chấp nhận chế độ này, hợp tác với nó trên các mặt chuyên môn. Họ hy vọng sẽ dần dần dân chủ hóa được chế độ. Nhưng nếu kẻ sĩ ngày trước trong hơn hai ngàn năm không thay đổi được chế độ quân chủ thì trí thức chuyên viên ngày nay dù có bản lĩnh hơn và có bối cảnh thuận lợi hơn cũng không thể thay đổi được chế độ độc tài này trong một hai thể hệ, nếu họ chỉ là những chuyên viên.
Hãy coi chừng lịch sử lập lại. Tại sao chủ nghĩa cộng sản bị phủ nhận tại Tây Âu, nơi đã khai sinh ra nó, mà lại thành công tại Trung Hoa, Việt nam và Triều Tiên? Tại sao, ngoại trừ hòn đảo Cuba nhỏ bé, chế độ cộng sản chỉ tồn tại được trên ba nước này? Lý do chính là vì chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện hồi đầu thế kỷ này như là một thứ Khổng Giáo Mới. Có gì khác giữa Khổng Giáo và chủ nghĩa Mác Lênin? Cũng đặt nền tảng trên bạo lực, cũng độc tài toàn trị, cũng giáo điều, cũng độc tôn, cũng “nhân trị” nghĩa là cai trị một cách tùy tiện bất chấp luật pháp, cũng bưng bít, cũng cấm đoán tư tưởng, cũng bài xích các tôn giáo, cũng triệt hạ kinh doanh, cùng đề cao sự nghèo khó để cai trị bằng sự nghèo khổ. Cả hai đều là những hệ thống nửa tôn giáo, nửa chính trị. Cả hai đều đưa đến bế tắc và cả hai đều có cùng một biện hộ sau khi đã thất bại: không phải lý thuyết sai mà là áp dụng sai. Chỉ cần lấy Marx và Anghen đạt vào địa vị của Khổng Tử và Mạnh Tử, lấy các cuốn Tư Bản Luận, Lênin Toàn Tập thay cho Tứ Thư và Ngũ Kinh, lấy Trung ương Đảng thay cho Triều Đình, đem các đảng viên thay cho đám quân tử là đâu lại vào đó. Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản. Chỉ có điểm mới là chủ nghĩa cộng sản tâng bốc quần chúng vô sản mà Khổng Giáo mạt sát, dù chỉ là một sự tâng bốc giả dối. Nếu trước đây Khổng Giáo đã dọn đường cho các chế độ cộng sản thì ngày nay những tồn đọng của tư tưởng Khổng Giáo đang giúp các chế độ này kéo dài.
Nguyễn Gia Kiểng , trích từ Tổ Quốc Ăn Năn

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2020

1592 会話 1 - Âm Hán Nhật - Âm Hán Việt

船主殿御支給品リストの件。 Senshu tonogo shikyū-hin risuto no kudan (ken). List of items supplied by the shipowner. Danh mục vật tư cấp bởi chủ tàu.

senshuthuyền chủ: chủ tàu: shipowner

船主殿御: senshu tonogo: chủ tàu: shipowner

shikyūchi cấp: cung cấp: supply/ provide

支給: shikyū-hin: chi cấp phẩm: vật tư được cấp

リスト: list: danh mục

: kudan (ken): item: kiện (hàng) (bưu kiện)


アンテナ系納入確認。 Antena-kei nōnyū kakunin. Delivery confirmation of antenna system. Xác nhận bàn giao hệ thống ăng-ten. 

アンテナ: antena-keihệ (thống) ăng-ten

nyūnạp nhập: delivery: nhập hàng

kakuninxác nhận: confirmation/ verification/ affirmation


平素は大変お世話になっております。Heiso wa taihen osewa ni natte orimasu. Đây là câu kính ngữ mở đầu bức email kiểu như "Rất cảm ơn ngài đã luôn hợp tác với chúng tôi"

heisobình tố: vốn xưa, sự tình ngày trước

taihenđại biến: ở đây trong tiếng Nhật có nghĩa là "rất" (very)

お世話になっております: osewa ni natte orimasu: câu này mở đầu thư một cách lịch sự


今月より、弊社/齋藤から本船を引継ぎました横田と申します。Kongetsu yori, heisha/ Saitō kara honsen o hikitsugimashita Yokota tomōshimasu. Từ tháng này, tôi là Yokota (横田) nhận trách nhiệm với con tàu từ người cùng công ty/ ông Saitō (齋藤).

kongetsukim nguyệt: tháng này

より: từ (đây)/ từ (ngày đó)

heishatệ : our company: công ty chúng tôi

honsenbổn thuyền: tàu này: this ship

ぎます: hikitsugimasu: take over: dẫn kế: kế thừa

引継ぎる: hikitsugiru: take over: nhận bàn giao

引継ぎました: hikitsugimashita: took over

と申します: tomōshimasu: my name is: tôi tên là


今後ともどうぞ宜しくお願い申し上げます。Kongo tomo dōzoyoroshiku onegai mōshiagemasu. Câu này cũng là cách nói lịch sự với ý là: Từ nay về sau xin cảm ơn ông nhiều.

kongokim hậu: từ nay về sau: from now on


掲題に関しまして、Keidai ni kanshimashite, Regarding the title, Như tiêu đề của thư này,

keidaikhế đề: title: tiêu đề

しましてkanshimashite: regarding/ concerning: liên quan tới


以前齋藤よりお送りしておりました izen Saitō yori ookuri shite orimashita: before it had been sent you from Saitō: trước đây đã gửi cho ông từ ông Saitō
izen tiền: trước đây: before
齋藤より: Saitō yori: from Saitō: từ ông Saito
送ります: okurimasu: sẽ gửi: will send
送る: okuru: send: gửi
お送りしておりました: ookuri shite orimashita: I was sending you: đã gửi cho ông
お送り致します: send: gửi (nói kính ngữ)
お送りいただくものとなります: will be sent to you (kính ngữ): sẽ được gửi cho ông

船主殿御支給品リストを再度添付にてお送り致しますので、senshu tonogo shikyū-hin risuto o saido tenpu nite ookuri itashimasu node,: I will send the ship owner's supply list again as an attachment,: Tôi xin gửi lại một lần nữa danh mục vật tư cấp bởi chủ tàu như trong đính kèm,
船主殿御支給品リスト senshu tonogo shikyū-hin risuto: Goods list supplied by the shipowner: danh mục vật tư cấp bởi chủ tàu.
saidotái độ: một lần nữa: again/ twice/ second time
tenputhiêm phụ: đính kèm: attachment/ appended

御査収の程宜しくお願い致します。O sashū no hodo yoroshiku onegai itashimasu. Thank you for your review. Xin cảm ơn ông hãy xem kiểm tra lại.
の程: O sashū no hodo: tra thâu: xem lại (cả cụm nói kiểu kính ngữ)

下記項目先行してお送り頂くものとなりますので、Kaki kōmoku senkō shite ookuri itadaku mono to narimasu node,: The following items will be sent in advance,: Những hạng mục dưới đây sẽ được gửi cho ông,
kakihạ : sau đây/ dưới đây: following
mokuhạng mục: item
sentiến hành: thực hiện/ đi trước: going first/ preceding
先行して: in advance: (làm gì đó) trước

内貨にてメーカー殿と納品ご調整頂けますように宜しくお願い致します。naika nite mēkā-dono to nōhin go chōsei itadakemasu yō ni yoroshiku onegai itashimasu. xin cảm ơn ông, ông có thể phối hợp với các nhà sản xuất trong nội tuyến để điều chỉnh việc giao hàng dự định. Thank you for your coordination with the manufacturer in local relationship for adjusting the delivery.
naikanội hóa: tiền trong nước
内貨にて: In local currency: tính bằng tiền trong nước
メーカー殿: mēkā-dono: manufacturer: nhà sản xuất
hinnạp phẩm: nhập hàng: delivery
nyūnạp nhập: delivery: nhập hàng
調 chōsei: adjustment: điều chỉnh
ご調整 go chōsei: adjustment 
調整する chōsei suru: adjust 
調整します chōsei shimasu: adjust

ボトムシームラインがあるんで。There's a bottom seam lines.

上記ホーサーにつきましても、Jōki hōsā ni tsukimashite mo, Regarding the above hawser, Về những dây buộc tàu ở trên,
: jōki: thượng : ở trên

添付リスト記載の通り船主殿より御支給されるということで Tenpu risuto kisai no tōri senshu-dono yori o shikyū sa reru to iu koto de: It will be paid by the shipowner as described in the attached list: Được nói rằng sẽ được cung cấp bởi/ từ chủ tàu như đã mô tả trong danh sách đính kèm 
kisai: tái: description/ mention/ entry: mô tả/ ghi chép
記載の通り: kisai no tōri: as described 
船主殿より: senshu-dono yori: from the shipowner 
御支給される: o shikyū sa reru: will be supplied: sẽ được cung cấp
ということで: that means: ý là

ご変更ございませんでしょうか。Go henkō gozaimasen deshou ka. Is there any change?
henbiến cánh: thay đổi/ biến đổi

また、送付状況共有の為、各アイテムをご送付次第、Mata, sōfu jōkyō kyōyū no tame, kaku aitemu o go sōfu shidai,: In addition, in order to share the sending status, as soon as each item is sent,: Ngoài ra để chia sẻ tình trạng gửi hàng, mỗi hạng mục, ngay sau khi được gửi đi, 
また: in additional/ also/ prong: ngoài ra
: fu: sending/ forwarding/ remitting: tống phụ: việc gửi đi
kyō: status/ circumstance/ situation: trạng huống: tình trạng/ trại thái
kyō: share: cộng hữu: cùng sở hữu
の為 ~ の為に: for: (để) cho (ai)/ nhằm mục đích
送付状況共有の為: for sharing sending status: để chia sẻ (thông tin) trạng thái việc gửi (hàng)
アイテム: kaku aitemu: each items: các items: mỗi hạng mục
shidai: immediate: thứ đệ: ngay khi
ご送付次第: as soon as it is sent: ngay sau khi được gửi đi

invoice、packing list、B/L (Tracking No.)のPDFを方までお送り頂けますと幸甚です。no PDF o tōhō made ookuri itadakemasuto kōjindesu. We would be grateful if you could send us a PDF of invoice, packing list and B / L (Tracking No.). xin hãy gửi cho chúng tôi các bản PDF của những invoice, packing list and B / L (Tracking No.)
: đương phương
方まで: to us: (gửi) đến chúng tôi
jin: pleased/ obliged/ appreciative: hạnh thậm: rất vui

大変お手数をお掛け致しますが、宜しくお願い申し上げます。Taihen otesū o o kake itashimasuga, yoroshiku onegai mōshiagemasu. We apologize for any inconvenience, but thank you. Xin lỗi vì bất cứ sự phiền hà nào, nhưng chân thành cảm ơn.
te: thủ số: trouble: sự phiền toái.
大変お手数ですが。xin lỗi đã làm phiền ạ

表題の件にてメールを転送致します。Hyōdai no ken nite mēru o tensō itashimasu. I forward the email with the subject matter. Tôi gửi chuyển tiếp mail dưới về việc như trên biểu đề
: hdaititle: biểu đề: đầu đề
表題の件にて: hyōdai no ken nite: In the subject matter
ten: chuyển tống: forward: chuyển tiếp
転送します tensō shimasu
転送する tensō suru

転送致します tensō itashimasu

お手配のほど宜しくお願いします。O tehai no hodo yoroshiku onegaishimasu. Thank you for your arrangement. Đề nghị hãy sắp xếp.
: tehai: thủ phối: xếp đặt/ xắp xếp/ bố trí/ phân phối
お手配: arrangement: xếp đặt/ bố trí
お手配のほど: about arrangement: về việc bố trí xắp đặt

転送されたメッセージ: Tensō sa reta messēji: Messages forwarded: Thư chuyển tiếp:

本件、承知しました。Honken, shōchi shimashita. I understand this case. Tôi đã nhận được trường hợp này.
: honken: in this case: bản kiện: chuyện này
shōchi: acknowledgment: thừa tri: thừa nhận
承知する: understand

本件、ご連絡を有難うございました。Honken, go renraku o arigataugozaimashita. Thank you for contacting us on this matter. Cảm ơn (ông) đã liên lạc về vấn đề này.
go renraku: contacting: liên lạc

関係部署に展開させて頂きます。Kankei busho ni tenkai sa sete itadakimasu. Will be deployed to relevant departments. Tôi sẽ triển khai tới các bộ phận liên quan.
: kankei: relationship/ relation/ connection/ connexion/ rapport: quan hệ
: busho: department/ duty station: bộ thự 
関係部署: bộ phận liên quan
tenkai: deployment/ expansion: triển khai 

引き続き宜しくお願い致します。Hikitsudzuki yoroshikuonegaiitashimasu. Please continue to give us your support. Chúng tôi luôn mong đợi sự tiếp tục giúp đỡ.
引き続き: continue

下記造船所からの連絡でアンテナ関係の納入は1月上旬と記載ありますが Kaki zōsensho kara no renraku de antena kankei no nōnyū wa 1 gatsu jōjun to kisai arimasuga: According to the notification from the shipyard below, delivery related to antennas is stated as early January: Như ở dưới liên lạc với nhà máy đóng tàu, việc cung cấp hệ thống ăn-ten vào đầu tháng 1 như đã nói đến.
sensho: shipyard: tạo thuyền sở: nhà máy đóng tàu
renraku: contacting: liên lạc
jun: early/ first 10 day of month: thượng tuần: đầu tháng
kisai tái: description/ mention/ entry: mô tả/ ghi chép

前回と同様に海上試運転の一週間前の納入が良いでしょうか。Zenkai to dōyō ni kaijōshiunten no isshūkanmae no nōnyū ga yoideshou ka. Is it good to deliver one week before sea trials as before? Có tốt không nếu cũng cung cấp 1 tuần trước khi chạy thử tàu giống như lần trước?
: zenkai: last time/ last installment/ last session: tiền hồi: lần trước
: as well/ same/ like/ equal to: đồng dạng: như
kaishiunten: sea trial run: chạy thử tàu: hải thượng thí vận chuyển
前: isshūkanmae: one week before: nhất tuần gian tiền: một tuần trước khi
nyūnạp nhập: delivery: nhập hàng

その方が良いのであれば造船所に連絡します。Sonokata ga yoi nodeareba zōsensho ni renraku shimasu. If it is better, contact the shipyard. Nếu như vậy là tốt hơn thì liên lạc với nhà máy đóng tàu.
その方が: Sonokata ga: That one: Việc đó/ Cái đó
良いのであれば: yoi nodeareba: if good: nếu tốt
その方が良いのであれば: Sonokata ga yoi nodeareba: If that's better: Nếu như vậy là tốt hơn

本船の海上試運転予定日は下記の予定となっています。Honsen no kaijōshiunten yotei-bi wa kaki no yotei to natte imasu. The scheduled date of the ship's test run at sea is as follows. Ngày dự định chạy thử tàu của con tàu này là theo như kế hoạch dưới đây.
日: yotei-bi: định nhật: scheduled date/ expected date: ngày dự kiến 

アンテナとラックについては、レンタル費用が発生するので出来ればそうしていただけると助かります。Antena to rakku ni tsuite wa, rentaru hiyō ga hassei suru node dekireba sōshite itadakeru to tasukarimasu. For antennas and racks, rental costs will be incurred, so it would be helpful if you could do so. Về việc ăn-ten và giá đỡ, bởi vì chi phí thuê (lưu kho) sẽ phát sinh, nên nếu có thể (giao hàng) như đã định thì sẽ tốt.
hi: cost/ expense: phí dụng: chi phí
hassei: outbreak/ occurrence: phát sinh
発生する: appear
ので: Because
出来れば: dekireba: If possible
そうして: then
いただけると助かります: itadakeru to tasukarimasu: It would be helpful if you could

その他の配線ケーブルなどは購入となるので、Sonohoka no haisen kēburu nado wa kōnyū to narunode, Other wiring cables etc. will be purchased, Bởi vì những thứ khác như là cáp dây điện etc. sẽ được mua,
その他: sonohoka: other/ otherwise
haisen: wiring: đường dây: phối tuyến
配線ケーブル: haisen kēburu: wiring cable: cáp (điện) đường dây
など: such: như là
配線ケーブルなど: wiring cable, etc.
その他の配線ケーブルなど: other wiring cables, etc.
入: nyū: cấu nhập: purchase/ buy: mua
購入する: purchase

いつも通り先行して造船所が指定する期日で送付したいと思います。Itsumodōri senkō shite zōsensho ga shitei suru kijitsu de sōfu shitai to omoimasu. As usual, I would like to send it ahead of time on the date specified by the shipyard. Tôi nghĩ là tôi muốn gửi (hàng) đến trước kỳ hạn (ngày) do nhà máy đóng tàu chỉ định như thông thường (vẫn làm)
いつも通り: itsumodōri: as usual: như thông thường/ như mọi khi
行して: senkō shite: in advance: tiên hành
造船zōsensho: tạo thuyền sở: cơ sở đóng tàu: shipyard 
所: shiyakusho: thị dịch sở: tòa thị chính thành phố: city hall
する: shitei suru: specify: chỉ định
kijitsu: deadline/ fixed/ settlement date: kỳ nhật: ngày đến hạn (hẹn)

本船の竣工前準備進めます。Honsen no shunkō zen junbi susumemasu. Preparations will be made before the completion of the vessel. Việc chuẩn bị sẽ được thực hiện trước khi hoàn thành con tàu này.
honsenbổn thuyền: tàu này: this ship
工前準shunkō zen junbi: thuân công tiền chuẩn bị: việc chuẩn bị trước khi đóng tàu xong (có thể là việc khác cũng dùng từ 竣工): Preparation before completion
進めます: susumemasu: proceed: tiến hành

引き続き、よろしくお願いします。Hikitsudzuki, yoroshikuonegaishimasu. Thank you, continue.

高圧洗浄機設置場所 Kōatsu senjō-ki setchi basho High pressure washing machine installation place: nơi lắp đặt máy rửa nước cao áp 
: kōatsu: cao áp: high pressure
機: sen-ki: tẩy tịnh cơ: máy rửa sạch
高圧洗浄機: máy rửa nước cao áp: high pressure washing machine
置: setchi: thiết trí: installation: lắp đặt
設置する: install
basho: trường sở: nơi/ chỗ/ vị trí

表題につきましてデッキハウスに440Vの電源取口があると思いますが Hyōdai ni tsukimashite dekki hausu ni 440 V no dengen torikuchi ga aru to omoimasuga: Regarding the title, I think there is a 440V power outlet in the deck house: Như đầu đề của mail, Tôi nghĩ là ở trong "deck house" có ổ cắm nguồn điện 440V 
hdaititle: biểu đề: đầu đề
表題につきまして: About the title
デッキハウス: deck house
取口: dengen torikuchi: điện nguyên thủ khẩu: power outlet: ổ cắm điện

それに合わせて高圧洗浄機を設置しようと思います。Sore ni awa sete kōatsu senjō-ki o setchi shiyou to omoimasu. I would like to install a high pressure washer accordingly. Theo đó, tôi nghĩ là tôi dự định sẽ lắp đặt máy rửa nước cao áp (tại đó)
それに合わせて: sore ni awa sete: according to it

つきましてはデッキハウス扉のサイズをご教示ください。Tsukimashiteha dekki hausu tobira no saizu o go kyōji kudasai. Please tell us the size of the deck house door. Bởi thế xin hãy bảo cho tôi kích thước cửa của deck house
つきましては: Therefore: do vậy/ từ đó/ bởi thế
扉: tobira: door: cửa
デッキハウス扉のサイズ: size of the deck house door: kích thước của cửa deck house
kyōji: teaching: dạy/ cho biết/ bảo cho: giáo thị
教示する: teach
ご教示ください: please kindly advise

それに合わせて購入、サイズをご連絡致します。Sore ni awa sete kōnyū, saizu o go renraku itashimasu. According to the purchase, please inform the size. 
入: nyū: cấu nhập: purchase/ buy: mua
購入する: purchase
renraku: contacting: liên lạc 
連絡する: contact

設置につきまして固縛用のアングルを溶接してもらう事は可能でしょうか。Setchi ni tsukimashite kobaku-yō no anguru o yōsetsu shite morau koto wa kanōdeshou ka. Is it possible to have the fixing angles welded for installation? Về việc lắp đặt, không biết có thể làm được việc hàn bộ giá sẵn để cố định máy móc?
置: setchi: thiết trí: installation: lắp đặt
設置する: install
設置につきまして: about installation
用: kobaku-yō: for securing: cố phược dụng: dùng trói buộc kiên cố
固縛用のアングル: angle for securing: (cơ cấu) góc dùng trói buộc kiên cố (máy rửa nước cao áp): cơ cấu để secure cái máy rửa nước cao áp
setsuwelding: dong tiếp: phương pháp nối bằng cách nung chảy: hàn nối
溶接する: weld
ka: possible/ feasible/ practicable: khả năng

アンテナ関係の納入は1月上旬と記載ありましたが Antena kankei no nōnyū wa 1 tsuki jōjun to kisai arimashitaga: Antenna-related delivery was stated in early January: Như đã ghi chép (kí tái) việc nhận (nạp nhập) hệ thống ăn-ten (quan hệ) vào đầu tháng 1 (thượng tuần tháng 1) 
jun: early/ first 10 day of month: thượng tuần: đầu tháng

kisai tái: description/ mention/ entry: mô tả/ ghi chép

アンテナとラックについてはレンタル料金が発生する為、Antena to rakku ni tsuite wa rentaru ryōkin ga hassei suru tame, Rental fees will be charged for antennas and racks, Về Ăn-ten và giá đỡ, bởi vì (sẽ) phát sinh chi phí thuê (kho),
金: ryōkin: price/ charge/ fee/ fare: liệu kim: chi phí
: ryōri: cuisine/ cooking: liệu : món ăn
hassei: outbreak/ occurrence: phát sinh

発生する: appear
レンタル料金が発生する為、because a rental fee occurs,

前回と同様に海上試運転の一週間前の納入が良でもよろしいでしょうか。Zenkai to dōyō ni kaijōshiunten no isshūkan mae no nōnyū ga yo demo yoroshīdeshou ka. Is it OK to deliver one week prior to sea trials as before? Như lần trước, việc nhập hàng (hệ thống ăn-ten) (thực hiện) 1 tuần trước khi thử tàu là tốt, nhưng (lần này nhập đầu tháng 1) có được không?
zenkai: last time/ last installment/ last session: tiền hồi: lần trước
: as well/ same/ like/ equal to: đồng dạng: như
kaishiunten: sea trial run: chạy thử tàu: hải thượng thí vận chuyển
前: isshūkanmae: one week before: nhất tuần gian tiền: một tuần trước khi

nyūnạp nhập: delivery: nhập hàng

配線、ケーブル等は御社が指定される期日でお送り致します。Haisen, kēburu-tō wa onsha ga shitei sa reru kijitsu de ookuri itashimasu. Wiring, cables, etc. will be sent on the date specified by your company. Những thứ khác như là dây điện, etc. sẽ được chuyển đến theo kỳ hạn được chỉ định bởi quý công ty.
haisen: wiring: đường dây: phối tuyến
配線、ケーブル等: wiring, cable, etc.
kijitsu: deadline/ fixed/ settlement date: kỳ nhật: ngày đến hạn (hẹn)
社: onsha: your company: quý công ty: ngự
定: shitei: assignment/ specification: chỉ định
指定します specify
指定する
指定される it is specified