Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

NBLRR 08 Nên bắt đầu "tu" từ độ tuổi nào

Chủ đề 8: Nên bắt đầu "tu" từ độ tuổi nào
Nhiều người cho rằng việc "tu hành của các cư sĩ tại gia" chỉ là việc của các ông già bà cả đã về hưu, rảnh việc mới có thời gian để tu. Thế nhưng căn cứ theo cách nhìn của Phật giáo thì hầu hết mọi người đều không biết rằng mình đang sống lãng phí một kiếp người. Điều này cũng dễ hiểu, bởi chúng ta vô minh, chúng ta không nhìn được luân hồi nghiệp báo, chúng ta không nhớ được vô lượng kiếp quá khứ, không hiểu được kiếp vị lai, và vì vậy hầu hết chúng ta chỉ sống cho thoải mái một kiếp này. Để rồi khi nhắm mắt xuôi tay là kết thúc tất cả.
Quả thật để thuyết phục người ta tin chuyện luân hồi chuyển kiếp, nhân quả công bằng thì thật là vô cùng khó. Bởi vì khoa học của con người không chứng minh được những chuyện đó. Ấy thế nhưng nhà khoa học vật lý hàng đầu của thế kỷ 20 là Albert Einstein lại phát biểu rằng: Khi khoa học vật lý phát triển tới đỉnh điểm thì sẽ tiệm cận với những gì mà Đức Phật đã tìm được từ hơn 2500 năm trước.
Tuy nhiên, khoa học của con người bây giờ vẫn còn rất khó để có thể chứng minh được sự tồn tại của "thân trung ấm"[1] (linh hồn), thì nói gì đến chuyện chứng minh những vấn đề khác. Bởi thế, rất nhiều người cho rằng chuyện nhân quả nghiệp báo, luân hồi chuyển kiếp là chuyện hoang đường, không đáng tin, và vì vậy việc phải vất vả tu hành là việc không cần thiết. Nếu cứ nghĩ như thế thì mỗi người đâu cần phải sao cho đạo đức. Cứ thoải mái hưởng thụ, thỏa mãn ích kỷ cá nhân, mặc kệ cuộc đời muốn đi đến đâu thì đến.
Thế nhưng có một điều rõ ràng mà Đức Phật đã thấy rất rõ đó là luật nhân quả công bằng bao trùm cả vũ trụ đến tất cả mọi loại muôn loài. Luật nhân quả công bằng chi phối tất cả mọi loài và nằm ngoài ý muốn của bất cứ một thế lực hay một quyền năng nào khác. Ai tin cũng được, ai không tin cũng được, luật nhân quả công bằng vẫn cứ vận hành theo đúng nguyên tắc nguyên thủy của nó. Người đời có tin hay không thì nó vẫn cứ tồn tại. Giống như người mù thì không nhìn thấy vầng thái dương, nhưng không phải vì người mù không thấy mà vầng thái dương không tồn tại. Ngược lại, cho dù người mù có thấy hay không, có tin hay không thì vầng thái dương vẫn tồn tại và chiếu sáng khắp nơi.
Một điều thứ hai người ta vẫn lầm hiểu rằng: Tu là khổ hạnh, là bị bắt buộc phải ép mình khổ để tu hành. Tuy nhiên, nếu thực sự tu là khổ hạnh thì có lẽ dần dần sẽ không còn người tu nữa. Người ta không hiểu một điều rằng các vị tu sĩ Phật giáo thực sự đạt được hạnh phúc vô biên trên con đường mà các thầy đã chọn. Nhưng người đời đứng ngoài nhìn vào không thể hiểu được nên cứ nghĩ rằng "tu là khổ".
Người ta đâu có hiểu rằng: có hai loại niềm vui khác hẳn nhau. Loại niềm vui của hưởng thụ ô trọc để thỏa mãn những đòi hỏi của ham muốn đời thường. Loại niềm vui này thường cụt lủn và kéo theo sự tạo nghiệp. Ví dụ như là một kẻ thích ăn nhậu, cứ có chút tiền là đi nhậu, nhậu bất biết trời đất ra sao, và kẻ đó cho rằng chỉ có như vậy là vui. Thế nhưng, ngay sau khi cuộc nhậu kết thúc thì niềm vui cũng tắt ngúm. Và cái nghiệp tạo ra thì vô vàn, như là nghiệp sát sanh, nghiệp lãng phí, nghiệp vọng ngữ vì ai nhậu nhẹt mà chẳng lời ra tiếng vào. Loại niềm vui này không thể so sánh được với niềm vui của trí tuệ, của từ bi, của tình yêu nhân loại. Những người hiền trí sẽ tìm niềm vui nơi đọc sách, làm tình nguyện, làm từ thiện, làm những việc mang lại lợi ích cho đông đảo mọi người. Ví dụ như chuyện hai cậu sinh viên nghèo đã cứu một cô gái bị tai nạn giao thông nằm bất tỉnh trên đường đưa vào bệnh viện cấp cứu khi người đời vẫn hờ hững ngược xuôi đi qua. Người lắm tiền mà nghèo trí, nghèo tấm lòng thì chỉ ham hưởng thụ bản thân, ban đầu thì có chút vui nhưng dần dần sẽ khổ vì nghiệp chướng tạo gây nhất định phải có lúc trả. Người ít tiền mà giàu tấm lòng thì tìm niềm vui trong sự cống hiến, lúc đầu tuy vất vả nhưng sẽ có được niềm vui kéo dài mãi, và dần dần cuộc sống sẽ dễ chịu thêm bởi phước nghiệp tạo gây quả lành nhất định báo. Người vừa có tiền lại vừa có tấm lòng thì thật là càng ngày càng hạnh phúc. Người đã nghèo tiền mà lại ích kỷ thì suốt kiếp khổ lại càng khổ thêm.
Có một triết gia đã đúc kết một câu thế này: Sống ở trên đời tham cái gì cũng dẫn đến họa diệt thân. Chỉ có hai thứ càng tham nhiều thì càng tốt: Kiến thức và Lòng tốt.
Trở lại với đạo Phật, Đức Phật dạy rằng: Có được thân người là một điều rất khó. Giống như một con rùa mù ở dưới đáy sông. 100 năm mới nổi lên một lần, thì lại vô tình vớ được bọc cây khô vừa rơi xuống đúng chỗ[2]. Bởi vậy hãy tận dụng cơ hội được làm người để mà tu.
Cao cả nhất là tu thiền để đạt được Thánh quả vị Phật thoát khỏi luân hồi đau khổ.
Tu Bồ Tát đạo[3]: chỉ có những vị đã đạt được Thánh quả mới có khả năng tu Bồ tát đạo.
Tu để đạt được quả vị Duyên Giác.
Tu để đạt được quả vị Thanh Văn.
Tu thập thiện để cầu tái sinh Phạm chúng làm dân cõi trời.
Tu tịnh độ để cầu tái sanh về Tây phương cực lạc, vô lượng thọ.
Nếu chưa đủ phước để xuất gia tu hành thì hãy tu phước ngay từ bây giờ để dần dần lấy phước bù cho nghiệp để từ đó cuộc sống hiện tại được cải thiện cả về vật chất, sức khỏe, lẫn tinh thần. Người ta thường hay chữa ngọn mà không quan tâm đến gốc. Khi nghèo thì thường cố làm việc hăng say để kiếm tiền cũng là chữa ngọn. Khi bệnh thì tìm đủ mọi phương thuốc để chạy chữa cũng là chữa ngọn. Khi buồn thì tìm đủ mọi cách để giải trí cũng là chữa ngọn. Thực ra cái gốc của mọi sự chính là nghiệp. Người ta sanh ra là bởi nghiệp. Lớn lên giàu hay nghèo, sang hay hèn cũng là bởi nghiệp. Già đi, bệnh vào cũng là bởi nghiệp. Chết cũng bởi nghiệp. Bởi vì nghiệp quá khứ khiến người ta nghèo, khiến người ta bệnh, khiến người ta buồn. Có chạy chữa đến đâu thì nghiệp chưa trả hết thì vẫn chưa hết nghèo, chưa hết bệnh, và chưa hết sầu. Nghiệp chi phối toàn bộ một kiếp người từ khi được sanh ra cho đến lúc phải từ giã cõi đời. Nói như vậy phải chăng con người đã bị nghiệp qui định và không thay đổi được số mệnh? Đúng như thế nếu người ta không tu. Nếu người ta quyết tâm tu thì đạo Phật có câu "Tu là để chuyển nghiệp".
Bởi vậy muốn trả nghiệp thì có hai cách:
Một là để kệ cho mọi chuyện diễn ra cho đến khi nào hết nghiệp thì thôi = thụ động và tiêu cực.
Hai là tạo phước để bù nghiệp = Tu để chuyển nghiệp. Khi nào phước càng dày thì nghiệp càng mỏng. Lúc ấy tự nhiên làm ăn có "may mắn", bệnh tật chẳng chữa cũng tự lui, nỗi buồn chẳng ai mua mà cũng hết.
Một câu hỏi đặt ra: Tu như thế nào? Trên thực tế rất nhiều người nghe đến từ "tu" thì nghĩ ngay đến việc "đi tu" có nghĩa là xuất gia làm tu sĩ. Quả thật việc xuất gia làm tu sĩ không hề đơn giản. Những người kiếp này được trở thành tu sĩ, chắc hẳn kiếp trước, nhiều kiếp trước đã tạo phước dày và đã có duyên với đạo qua nhiều kiếp quá khứ[4].
Phàm phu như chúng ta bởi chưa đủ phước, chưa đủ duyên nên còn vướng bận nhiều bụi trần. Tham ái còn nặng mang nên có cố xuất gia chắc tu hành cũng chẳng yên, đến lúc vẫn phải hoàn tục. Tuy không thể xuất gia làm tu sĩ, thì hoàn toàn có thể làm một cư sĩ tại gia tu theo đạo để thân tâm được an lạc, và an lạc cho chính gia đình mình. Các thày tỳ-kheo luôn sẵn sàng làm lễ quy y Tam Bảo cho chúng sanh và đưa ra ngũ giới để các cư sĩ tại gia tuân theo từ đó có thể giữ được thân người khi chuyển kiếp. Gieo duyên với đạo mong cầu kiếp sau sớm được gặp đạo để có thể sớm được tu hành mong cầu giải thoát.
Trong mỗi người đều có cái tôi cái bản ngã rất lớn. Đồng thời trong Tâm mỗi chúng sanh bao giờ cũng có một Quỉ và một Phật. Mỗi khi có chuyện gì dù nhỏ hay lớn xảy đến với mình hay xảy đến với những cái của mình, thì Quỉ trong Tâm lại hối thúc động viên cái bản ngã trỗi dậy, đó chính là lúc người ta có những ý nghĩ, lời nói và hành động tham lam, sân hận, ngu si bùng phát. Chính vì chấp ngã và chấp sở ngã quá lớn nên người ta luôn tạo cơ hội cho Quỉ trong Tâm tung hoành phá phách, và vì vậy thập ác mới tạo gây, nghiệp chướng càng ngày càng dày. Từ đó nhận thấy việc tu là việc kiềm chế cái bản ngã, làm cho cái bản ngã của mỗi người dần dần xẹp xuống, khi bản ngã nhỏ dần cũng chính là lúc Phật trong Tâm đang khuyến khích chúng ta nghĩ, nói và làm những việc phước, hiền và trí tuệ.
Ở Việt Nam hiện nay đang phổ biến hai pháp môn đó là pháp môn Thiền và pháp môn Niệm Phật[5]. Đa số các cư sĩ tại gia thường áp dụng tu hành theo pháp môn Niệm Phật. Pháp môn Niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh Độ, là phương pháp tu hành mà người cư sĩ tại gia hàng ngày niệm Phật để sau khi mệnh chung cầu vãng sanh vào cõi Tịnh Độ của Đức Phật A-di-đà.
Vậy ta có thể cụ thể chi tiết từng việc của sự tu hành như sau:
1. Giữ ngũ giới
          1.1. Không sát sanh hại vật: Không sát sanh hại vật, trải lòng ra yêu thương mọi loài cũng là tạo phước lành
          1.2. Không trộm cắp: Không lấy những thứ không phải là của mình cũng là tạo phước lành
          1.3. Không tà dâm: Không tham đắm sắc dục cũng là tạo phước lành
          1.4. Không vọng ngữ: Không nói láo, không dùng lời lẽ chia rẽ mọi người, không chửi bới nhiếc móc người, không nói những lời vô nghĩa cũng là tạo phước lành
          1.5. Không dùng các chất gây nghiện: Không uống rượu, không hút thuốc, không sử dụng ma túy, không chơi "game"... luôn giữ cho mình minh, mẫn tỉnh táo cũng là tạo phước lành
2. Niệm Phật nhất tâm bất loạn: Một câu niệm "Nam mô A-di-đà Phật" quả là không khó đối với bất cứ ai. Nhưng để niệm được một câu với cái tâm "nhất tâm, bất loạn" thì quả không dễ dàng chút nào. Phàm phu như chúng ta cái tâm vô cùng loạn, hình ảnh của mặt biển khi thời tiết bão gió như thế nào thì cái tâm của chúng ta nó giống y như vậy. Bởi vậy người ta không khó để đọc ra câu niệm Phật, nhưng cái khó là cùng lúc niệm bằng lời thì tâm cũng niệm như thế. Mồm thì đọc "Nam mô A-di-đà Phật" nhưng tâm lại nghĩ đến việc phải trị đứa con dâu làm sao, phải trị thằng rể thế nào, phải buôn gì, bán gì... thì có niệm cả ngàn câu vẫn không thấy Phật đâu. Nhưng nếu mỗi một câu niệm Phật mà trong tâm chỉ có hình ảnh Đức Phật A-di-đà, thì chỉ cần mười câu niệm thôi thì thân tâm đã an lạc vô cùng.
Niệm Phật thường xuyên cũng là gây tạo phước lành. Bởi khi ta niệm Phật không chỉ một mình mình nghe, mọi chúng sanh hữu hình hay siêu hình chung quanh mình cũng đang nghe[6]. Vô tình ta đã gieo duyên cho những chúng sanh đó với đạo Phật, và vì thế phước lành được nhân lên. Khi phước càng nhiều, nghiệp càng giảm. Điều này giải thích tại sao nhiều người già tụng kinh niệm Phật thường xuyên thì lại luôn khỏe mạnh, minh mẫn, chẳng bệnh tật gì đến tận khi qua đời. Đến lúc chết, thậm chí nhiều cụ già biết được cả lúc mình chết, thế nên mới tắm rửa sạch sẽ, vận đồ đẹp, chay giới, nằm trên giường, niệm 6 chữ hồng danh "Nam mô A-di-đà Phật" rồi thanh thản đi vào cõi Tịnh độ[7].
Niệm Phật cũng là trợ duyên cho ngũ giới. Người thành tâm niệm Phật thì tâm từ bi khởi phát, yêu thương chúng sanh nên giữ được giới sát sanh. Thân tâm an lạc, giấc ngủ an lành nên cũng không sát hại cả chính mình. Người thành tâm niệm Phật thì tin nghiệp báo trả vay nên không dám lỡ lấy cái gì của ai, không đánh cắp cả sức khỏe của chính mình khiến cho mọi người thân chung quanh thấy yên lòng, cũng là tạo phước lành. Người đàn ông, người đàn bà thành tâm niệm Phật thì cũng mất luôn cả sự tham lam ái dục, không dám lừa gạt trinh tiết của người khác nên cũng giữ được giới tà dâm. Người thành tâm niệm Phật, cái miệng luôn bận với câu niệm "Nam mô A-di-đà Phật" thì làm gì còn miệng nào để mà nói xấu hay la mắng người khác. Tự nhiên giữ được giới vọng ngữ. Người thành tâm niệm Phật, biết được thế nào là phải thế nào là trái, luôn giữ cho mình tỉnh táo, vậy là cũng giữ được giới thứ 5 tránh sa vào nghiện ngập.
Người già cũng như người trẻ, đi đứng nằm ngồi niệm 6 chữ hồng danh "Nam mô A-di-đà Phật", Tâm hướng đến Phật, hình ảnh Đức Phật sáng ngời luôn hiện ra trong tâm. Khi đó Tâm không còn thời gian để phát ra Tham, Sân, Si nữa, như vậy thì cái gốc của thập ác cũng được khống chế, tinh thần thảnh thơi, phước lành vời vợi. Người ta gặp nhau, lạ hay quen cũng chào nhau bằng một câu "A-di-đà Phật" chính là chúc cho nhau thân tâm đều được an lạc cũng tạo phước mọi nơi. Bởi vậy dù có thấy hay không, thì cũng hãy tin rằng: Thành tâm niệm Phật là tăng thêm phước đức.
3. Làm phước bằng các phong trào tình nguyện, giúp đỡ người khác: Có hàng ngàn việc người ta có thể làm để mang lại lợi ích dân sinh. Như nhặt rác nơi công cộng giúp gìn giữ môi trường. Đắp lại những đoạn đường sạt lở, lấp ổ gà ổ trâu, giúp thuận lợi cho người qua lại. Trồng cây gây rừng. Tham gia giúp người khác xây dựng lại nhà cửa sau khi bị thiên tai bão lũ. Hiến máu nhân đạo vừa giúp người, vừa giúp mình cải thiện sức khỏe. Và bất cứ việc gì giúp đời vui vẻ hạnh phúc đều là gây tạo phước lành. Làm phước giúp đời thân tâm an lạc. Tuy nhiên, khi làm tình nguyện thì cũng cần phải dưỡng tâm. Nếu làm tình nguyện mà mang tâm “chấp công” thì hoàn toàn vô nghĩa. Có rất nhiều người làm “từ thiện để đánh bóng tên tuổi” đó là “kinh doanh (business)” rồi thì miễn bàn. Có nhiều người không vì “đánh bóng tên tuổi” nhưng tâm lại “chấp công”, khi làm việc luôn nghĩ “mình làm phước cho người như thế này nhất định mình sẽ được phước báo”. Như vậy là đã có “chấp công” ngay khi gieo hạt. Tuy có ích lợi cho xã hội nhưng với bản thân thì không tu được gì. Vì người tu phải có cái tâm xả. Chứ nếu mà tâm “chấp công” thì càng tu bản ngã càng leo thang. Rốt cùng thì cũng lãng phí cả một kiếp người.
4. Người có chút kinh tế thì có thể san sẻ, bố thí, phóng sanh... cũng mang lại phước lành cho bản thân để từ đó tiêu trừ dần dần những ác nghiệp. Hành động phóng sanh và khai thị cho chúng sanh trước khi thả chúng về với thiên nhiên lại nhận được quả báo lành về sức khỏe và tuổi thọ.
5. Đến chùa lễ Phật, cúng dường chư tăng, thỉnh băng đĩa về nghe, thỉnh sách về đọc vừa để hiểu thêm về đạo để củng cố niềm tin vào chân lý nhân quả công bằng vừa là tìm một nơi thanh tịnh cho tâm hồn. Có rất nhiều người rất lạ là ngay từ đầu đã cho rằng "có gì hay đâu mà cần phải nghe và đọc", và rồi họ thường ngụy biện bằng những lý do có vẻ rất hợp lý là "còn phải dành thời gian để mưu sinh chứ không có rảnh để nghe và đọc". Chưa nghe, chưa đọc, chưa học mà đã bảo là "chẳng có gì hay". Thậm chí lại còn phát biểu khá là ác cảm với những người thích nghe giảng đạo.
Chuyện xưa kể rằng:
Có một bà mối rất tài, làm mối vụ nào cũng xong. Một lần bà được mời làm mối cho một cặp trai gái khá là nan giải: Chàng trai bị thọt, cô gái thì sứt môi. Bà ta liền nghĩ ra một cách để hai người xem mặt nhau như sau: Vào ngày hội xuân, bà mối bố trí hai người gặp nhau. Dấu hiệu để nhận ra nhau là chàng trai cưỡi một con ngựa bạch còn cô gái thì cắn một đóa hoa. Sau khi coi mắt, hai người đồng ý cưới. Từ đó có câu "cưỡi ngựa xem hoa".
Câu chuyện trên muốn nói điều gì thì chắc ai cũng hiểu. Nhưng thử soát xét lại đời mình có bao nhiêu lần ta còn hồ đồ hơn cả "cưỡi ngựa xem hoa". Có những thứ ta tưởng như đã xem xét rất kỹ nhưng vẫn hồ đồ, huống chi những thứ mà ta còn chưa biết nó là gì mà đã vội vàng gắn cho nó một định kiến thì còn hồ đồ đến mức nào. Kiến thức thì vô cùng bao la và rộng lớn, còn những gì ta biết chỉ là một hạt bụi giữa sa mạc mà thôi. Bởi vậy sách giáo lý đạo Phật, băng đĩa do các thày chân tu giảng về giáo lý là những thứ vô cùng quí giá, vấn đề là ta có muốn nghe và đọc hay không mà thôi.
Tất cả 5 việc kể trên đều rất dễ dàng thực hiện. Ai cũng có thể làm được ngay trong tầm tay, bất kể là già hay trẻ. Tu là để tránh tạo nghiệp, tu là để gây tạo phước lành. Nghiệp thì ví như món nợ vay của ngân hàng. Phước lại ví như khoản tiền nhàn rỗi gửi ngân hàng giữ hộ. Vì vậy lấy phước bù nghiệp là điều dễ hiểu. Vậy thì tại sao lại chỉ có người già rảnh việc mới cần tu. Phải chăng việc tu được thực hiện càng sớm thì càng tốt hay sao? Câu trả lời xin mọi người tự định đoạt. Bởi nghiệp chướng của ai người đó phải tự giải, không ai có thể cõng giùm nghiệp cho người khác.
Người già cần tu để tránh ốm đau bệnh tật, thân tâm bình an...
Người trẻ cần tu để thân tâm an lạc, mọi việc an lành, công việc suôn sẻ, tìm vận may, tránh vận xui... Ví dụ như nghề thủy thủ tàu biển của những người như chúng tôi là một nghề của những người kém phước. Bởi vì người ta ai cũng đi làm kiếm sống, nhưng mọi người đều có người thân bên cạnh, còn thủy thủ thì hết ngày dài đến đêm thâu chỉ có biển và trời. Điều kiện làm việc thì vất vả. Lương thực thì thiếu thốn. So về mọi mặt thì đều cho thấy là kém phước hơn những công việc khác ở trên bờ. Thế nhưng nếu không biết đạo cứ sống buông thả, thì đi biển đã không tạo thêm được phước, mà còn có thể sát sinh hại vật gây ra nghiệp lớn, khiến phước càng mỏng, nghiệp càng dày... để rồi vận xui đến thì không ai có thể giúp được nữa. Nếu như tất cả những người đi biển đều học đạo và tin luật nhân quả công bằng. Để rồi mỗi thời mỗi khắc đều niệm câu "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" để tự nhắc bản thân mình hãy tránh sát sanh hại vật, không xả rác bừa bãi xuống biển, đối xử hòa nhã với bạn bè đồng nghiệp... Như thế, ở đó người người gây tạo phước lành, lấy phước bù nghiệp, làm cho vận xui bị suy giảm, nếu có thì cũng chỉ là nhẹ nhàng thoảng qua, thậm chí có thể không còn xảy ra nữa. Nói rộng ra, chẳng riêng gì người đi biển, mà tất thảy mọi người ai ai cũng học đạo và tin luật nhân quả công bằng, từ đó tự giác học và hành đạo thì đất nước này, thế giới này phước lành bao trùm, tươi đẹp biết bao! Thế giới này xưa kia vốn cũng đẹp lắm!
Những người trẻ tuổi, sức khỏe thể chất cũng như tinh thần đang còn sung mãn, được các thày tỳ-kheo khuyến khích nên song tu theo cả pháp môn niệm Phật[8] và pháp môn thiền định. Bởi vậy nếu ai có thể hàng ngày tập tu Thiền Định thì dần dần tâm sẽ được thanh tịnh và hoàn toàn có thể khống chế được Tham, Sân, Si vốn luôn luôn thường trực để xúi giục những ham muốn ô trọc tạm bợ. Những ai không thể đủ khả năng tu thiền thì cũng gắng tu niệm Phật đưa lại bình an cho bản thân và gia đình. Dù là tu gì, nếu hiểu và tin giáo lý của Đức Phật thì ngay bản thân cũng đã thấy tâm thanh thản và nhẹ nhàng chứ không còn đổ lỗi cho số phận và dằn hắt bản thân khi gặp sự bất như ý trong cuộc đời.
Trẻ nhỏ cũng cần tu để đừng bao giờ phải khóc hận vì lúc nhỏ học giỏi mà lớn dần lại học kém. Lúc mới sanh ra do phước của kiếp trước nên kiếp này có trí thông minh, nhưng hưởng phước mãi cũng đến lúc hết, bởi thế trí thông minh cũng kém dần. Thậm chí có một số trẻ lúc bé là thần đồng, ba tuổi đã biết đọc viết, làm toán, nhưng càng lớn thì khả năng đó càng mất dần, đến lúc lớn chẳng biết thần đồng đã bỏ đi đâu. Do đó trẻ con cũng cần phải tu phước để bù lại cái mà mình đã phải hưởng.
"Trẻ con như búp trên cành" nên cố gắng tránh bắt trẻ con sát sanh hại vật, khuyên lơn chúng không nên làm hại các con vật mà phải thương chúng, bởi vì sát sanh hại vật thì nghiệp báo rất nặng nề.
Thời Đức Phật còn tại thế, có một lần Đức Phật cùng Tăng đoàn đi vào trong dân để hóa độ. Khi đến một ngôi làng ngài nhìn thấy một đám trẻ đang bắt những con cua để chơi. Bọn trẻ lần lượt thay nhau bẻ từng cái càng, cái  cẳng của con cua rời ra khỏi thân mình, rồi bẻ vụn ra, cho đến khi con cua mất hết cả tám cẳng hai càng. Rồi chúng lại chạy đi bắt con cua khác để chơi. Thấy vậy, Đức Thế Tôn liền hỏi "này các con, nếu như có ai đó bẻ chân bẻ tay các con ngược ra phía sau thì các con có đau không?" - "Bạch Phật! Đau lắm ạ!" - "Đúng thế! Các con đau thế nào, thì con cua nó cũng đau như thế! Không những thế, con cua cũng có cha mẹ anh chị em giống như các con vậy. Nếu bây giờ các con bỗng nhiên không về nhà thì gia đình cha mẹ các con sẽ buồn khổ biết bao. Cha mẹ các con đau xót thế nào thì cha mẹ con cua cũng đau xót như thế. Chỉ vì để vui vẻ một chút mà các con lỡ tay hại chết con cua làm nó đau đớn thân thể cùng cực. Lại làm cha mẹ anh chị em của con cua đau xót trong lòng. Các con có thấy thương cảm không?" - "Bạch Phật! chúng con biết lỗi rồi" - "Vậy từ nay các con đừng bao giờ làm hại các con vật yếu đuối nữa nhé!" - "Bạch Phật! Chúng con nhớ rồi ạ".
Các bậc cha mẹ giữ ngũ giới, cũng nên khuyên con cái mình giữ ngũ giới để tránh tạo nghiệp, bởi nếu đứa trẻ nào tạo nhiều nghiệp chướng thì lớn lên tự nó sẽ phải trả quả báo nặng nề khiến cho cuộc sống buồn khổ, bạc mệnh nhiều hơn là vui vẻ hạnh phúc. Các bậc cha mẹ thường xuyên thành tâm tụng kinh niệm Phật, cũng nên khuyên con cháu mình thường xuyên thành tâm niệm 6 chữ hồng danh "Nam mô A-di-đà Phật". Ngay từ bé đã thường xuyên niệm câu này, đứa trẻ lớn lên có trái tim nhân hậu, trải lòng ra yêu thương vạn loại muôn loài. Quả báo cảm ứng ngược lại, đi đến đâu cũng luôn được vui vẻ, may mắn tựa như có quí nhân phù trợ. Câu niệm 6 chữ hồng danh này cũng là một nét văn hóa rất đặc sắc của người Việt Nam bởi vậy chẳng cần chi phải e ngại.
Hoạt động làm phước không chỉ là đặc quyền của bất cứ ai, trẻ nhỏ giúp bạn học tốt hơn cũng là một cách làm phước. Thậm chí đứa trẻ nào biết chia sẻ một chút tài sản bé nhỏ của mình cho người khác thì cũng phước đức vô cùng. Có câu chuyện kể rằng:
Có một cậu bé đánh giày lang thang cả ngày mọi ngõ ngách trong thành phố để kiếm sống. Một ngày cuối năm, trời mùa đông lạnh lẽo, mọi người hối hả trở về với gia đình, cậu vẫn cô đơn một mình mời khách đánh giày dọc theo các con phố. Đến cuối ngày cậu chỉ kiếm được 5 xu. Đến cửa hàng bánh mì, 5 xu công lao động cả ngày của cậu chỉ đủ mua 1 cái bánh mì. Bụng đói meo, cậu bé đưa chiếc bánh mì lên mồm, cậu chợt nhận ra một ánh mắt thiết tha đang nhìn cậu chăm chăm. Một người phụ nữ cùng 3 đứa trẻ đang mời khách mua hoa để trang trí ngày tết. Cô con gái út của người phụ nữ bán hoa đang nhìn cậu và chiếc bánh mì trên tay cậu, dường như cô bé cũng đã không được ăn gì cả ngày hôm nay. Như có một sức mạnh phi thường nào đó thúc đẩy, cậu tiến tới, đưa chiếc bánh mì cho cô bé với ánh mắt ân cần từ bi. Cô bé quay lại nhìn mẹ rồi lại quay ra nhìn chiếc bánh mì trong tay cậu. "Em ăn đi!" Cô bé run run đón nhận chiếc bánh mì từ tay cậu "em cảm ơn anh!" Mẹ cô bé vội vàng nói "Nào các con hãy tặng cho cậu bé này những bông hoa đẹp nhất và những lời chúc cho một mùa xuân mới hạnh phúc!" Người phụ nữ bẻ chiếc bánh mì ra làm 4 phần: 3 phần cho 3 đứa con và một phần đưa lại cho cậu bé. Bằng một hành động nhỏ, nhưng lại tạo phước lớn, bởi vì cậu bé đã sẵn sàng đem tất cả những gì mình có để chia sẻ cho người kém may mắn hơn, thế nên sau này lúc trưởng thành cậu bé đánh giày được phước báo trở thành một người vô cùng giàu có.
Trách nhiệm hàng đầu của trẻ nhỏ là học tập, bởi vậy phải cố gắng học cho giỏi. Nhưng có giỏi đến mấy cũng phải biết khiêm nhường tự thấy mình nhỏ thôi. Ngược lại nếu chê người khác dở, tự khen mình hay là bệnh tự kiêu, khiến cho mất hết cả phước đức, rồi đến lúc lại kêu ca vì "học tài thi phận". Điều này giải thích vì sao nhiều trẻ học thì rất giỏi như khi đi thi lại bị rớt thảm hại.
Khiêm tốn học người, đối xử từ tốn với người, tôn trọng ý kiến người khác, khi góp ý với người phải nói với tấm lòng chân thật từ bi là cách sống hòa nhã giữa đại chúng. Nếu cậy mình tài mà "khoe khoang là mất phước", Đức Phật dạy rằng: Chỉ một chút tâm kiêu mạn khởi lên là bùng cháy thiêu đốt hết bao nhiêu phước đức tu tập bấy lâu.
Thày Chân Quang có giảng một khóa Pháp thoại rất hay với tiêu đề "dạy con nên người", nếu có điều kiện mọi người nên tìm bộ đĩa này để xem.
Các bậc cha mẹ cần phải tu để dạy trẻ. Bởi cách dạy trẻ tốt nhất là mỗi người phải là một tấm gương để con trẻ học tập. Nếu cha mẹ sống bừa bãi buông thả mà muốn dạy con nên người thì thật "mò trăng đáy nước". Ví dụ một ông quan lớn tham nhũng vô độ, bắt dân đen phải biếu xén quà cáp mà suốt ngày quát con phải thật thà không được trộm cắp thì con nó có nghe không? Có rất nhiều bậc cha mẹ chỉ tối ngày mải mê kiếm tiền, tiền kiếm bao nhiêu vẫn cảm thấy thiếu, bỏ bê việc dạy dỗ con cái. Bởi thế mà rất nhiều em nhỏ còn chưa đến 18 tuổi đã phát biểu rằng "học hành mà làm gì, học cách kiếm tiền là quan trọng nhất" thậm chí câu nói cửa miệng của họ là "ai cho em nhiều tiền, em sẽ yêu người đó". Trời đất! mấy ông chính phủ, các cấp chính quyền cũng tối ngày nói chuyện kinh tế, đài báo ti-vi cũng tối ngày nói chuyện kinh tế, người ta ngồi chỗ nào cũng buôn chuyện kinh tế, để đến nỗi trẻ con cũng in luôn chữ "đô-la" vào trong đầu. Một xã hội ngoài chuyện "tiền" ra thì chẳng còn biết làm những điều bổ ích gì khác. Họ thi nhau hăng say bàn cách kiếm tiền, những người nào kiếm được nhiều tiền thì được cho là "người thành công". Những việc như trồng cây gây rừng, bảo vệ môi trường, bảo vệ đạo đức xã hội thì chỉ qua loa sơ sài cẩu thả. Pháp luật là bản lề cho một xã hội công bằng văn minh thì lại được sử dụng như một thứ "lá mặt lá trái": Đối với dân đen thì dùng pháp luật để đè nén cưỡng đoạt. Đối với quan tham, kẻ có tiền bạc thì pháp luật chỉ là trò đùa trẻ con.
Trong xã hội VN hiện nay có quá nhiều hiện tượng khiến người ta nghĩ rằng đạo đức đã suy đồi đến mức không thể tệ hơn được nữa. Một nhóm 3 nữ sinh đánh một nữ sinh đến bầm dập mà đám bạn xung quanh không một ai can ngăn, ngược lại còn hò reo cổ vũ, rồi quay "clip" để tung lên mạng. Không biết trong lồng ngực của họ còn là trái tim của con người nữa hay không? Người viết bài này còn nhớ lúc xưa, chuyện bạn bè có xích mích xông vào đánh nhau cũng là bình thường, nhưng đám bạn khác nhìn thấy là lập tức can ngăn không để ai bị thương bao giờ. Lại chuyện một cô gái bị tai nạn giao thông nằm vật ở vệ đường, mọi người đi qua chỉ giảm tốc độ ghé mắt nhìn rồi thản nhiên đi tiếp. Chỉ đến khi có hai cậu sinh viên nghèo từ nông thôn ra thành phố nhìn thấy vội vàng băng qua đường để xem cho kỹ, rồi vội vàng đưa vào bệnh viện cấp cứu dù không biết cô gái ấy là ai. Và rồi một vụ án mạng kinh hoàng, một sát thủ tuổi "teen" vị thành niên (chưa đủ 18 tuổi) ra tay sát hại 3 người trong một tiệm vàng trong đó có một cháu bé mới 18 tháng tuổi. Người ta có nghĩ cách gì cũng không thể hiểu được vì sao một đứa bé 18 tháng tuổi cũng bị giết? Vậy mà khi ra tòa sát thủ máu lạnh đó không hề có một chút thể hiện sự hối hận?
Đức Phật dạy:
"Khi nào, này các Tỳ-kheo, các vua phi pháp có mặt, khi ấy các đại thần phi pháp của vua có mặt. Khi nào các đại thần phi pháp của vua có mặt, khi ấy các bà-la-môn gia chủ phi pháp có mặt. Khi nào các bà-la-môn gia chủ phi pháp có mặt, khi ấy dân chúng thành thị và dân chúng các làng trở nên phi pháp. Khi nào dân chúng thành thị và dân chúng các làng trở nên phi pháp, khi ấy mặt trăng, mặt trời đi sai quĩ đạo. Khi nào mặt trăng, mặt trời đi sai quĩ đạo, khi ấy tháng và nửa tháng đi sai quĩ đạo. Khi nào tháng và nửa tháng đi sai quĩ đạo, khi ấy thời tiết và năm đi sai quĩ đạo. Khi nào thời tiết và năm đi sai quĩ đạo, khi ấy gió thổi sai lạc trái mùa. Khi nào gió thổi sai lạc trái mùa, khi ấy chư thiên bực mình. Khi nào chư thiên bực mình, khi ấy trời mưa không có điều hòa. Khi nào trời mưa không có điều hòa, khi ấy lúa chín trái mùa. Này các Ty-kheo, khi nào lúa chín trái mùa, khi ấy loài người nuôi sống với loại lúa ấy thì thọ mạng sẽ ngắn, dung sắc xấu, yếu sức và nhiều bệnh."
Với đoạn kinh ngắn ở trên, chúng ta có thể hiểu ngay được rằng chuyện "biến đổi khí hậu", chuyện thiên tai (thực ra là nhân họa, tự con người gây ra nhưng lại đổ tại trời) của thời nay đã được Đức Phật nhìn thấy và nói đến từ hơn 2500 năm trước!
Do đó việc tu đạo để học cách làm người lương thiện. Tin vào luật nhân quả công bằng, để tự răn đe đạo đức bản thân. Đồng thời giáo dục thế hệ tương lai sống sao cho không gây ra tội lỗi, và thực hành làm những việc gây tạo phước lành là một việc vô cùng lợi ích không chỉ dành riêng cho người cao tuổi. Bất cứ ai, càng tu sớm thì càng tốt. Một gia đình có nhiều thế hệ mà toàn gia đồng tu thì trên dưới thuận hòa phước đức tràn trề hạnh phúc vô biên.



2014 sửa sai:
[[1]] “Linh hồn” được giáo lý Đại Thừa nhắc đến như một thực thể siêu hình tồn tại trường cửu chu du trong vũ trụ và đầu thai theo nghiệp quả mà nó đã tạo gây trong kiếp quá khứ. Trong các bài giảng, Đức Thích Ca không nhắc đến một linh hồn trường cửu (immortal soul).
2014 sửa sai:
[[2]]  Đoạn này kinh Đại Thừa viết là Phật ngôn. Tuy nhiên, Đức Thích Ca không nhắc đến một linh hồn trường cửu (immortal soul) đầu thai hết kiếp này đến kiếp khác để rồi may mắn một kiếp nào đó có được thân người.
[[3]] Đức Bản Sư dạy cho chúng sanh con đường trung đạo, tu để đạt đến giải thoát giác ngộ, tự do tuyệt đối. Các quả vị khác như Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn… là những sáng chế của Đại Thừa, không phải là do Đức Bản Sư dạy.
2014 sửa sai:
[[4]] Đức Thích Ca khuyến khích bất cứ ai nếu muốn đạt đến trạng thái hạnh phúc tự do tuyệt đối thì đều có thể bắt đầu tu, không chỉ những người đủ phước mới được tu. Nhiều người tu không được phải hoàn tục là bởi vì 2 lý do chính: 1. Thày dạy chưa phải là một vị Thánh giác ngộ. 2. Tu chưa đúng nên không tìm được niềm vui, hạnh phúc trong tu hành, vì thế việc tu lại trở thành “địa ngục” còn khổ hơn là “hoàn tục”.
2014 sửa sai:
[[5]] Đại Thừa viết Đức Thích Ca đã giới thiệu về Đức A-Di-Đà là giáo chủ của cõi tịnh độ. Tuy nhiên, trên thực tế, Đức Thích Ca không hề giới thiệu với chúng sanh về cõi giới này.
2014 sửa sai:
[[6]] Đại Thừa viết xung quanh chúng ta tồn tại vô lượng chúng sanh siêu hình, mắt thường không thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, trên thực tế, Đức Thích Ca không hề nói gì về những chúng sanh siêu hình này.
[[7]] Những chuyện như vậy được nhiều vị tu theo Pháp môn Tịnh độ kể.
2014 sửa sai:
[[8]] Pháp môn niệm Phật (Tịnh độ tông) được giới thiệu trong giáo lý Đại Thừa hình thành sau khi Đức Thích Ca qua đời. Khi con tại thế, Đức Thích Ca không hề nói gì về pháp môn niệm Phật hay cõi Tịnh độ.

Download PDF một trong 2 link dưới đây:


Không có nhận xét nào: